Thứ Tư, 25 tháng 7, 2012

Có một nền văn hóa Hạ Long


Có một nền văn hóa Hạ Long


Tổ chức NewOpenWorld đã phát động chương trình bầu chọn bảy kỳ quan thiên nhiên của thế giới, trong đó vịnh Hạ Long của VN được giới thiệu. Nhiều người đã vào trang web www.natural7wonders.com
để đề cử vịnh Hạ Long, đề cử cho một vẻ đẹp huyền ảo của đất nước và cũng là đề cử cho một kỳ quan thiên nhiên không chỉ của VN.
Hạ Long không chỉ là một kỳ quan thiên nhiên, trong mình nó còn có những giá trị khác có thể nhiều người chưa biết, những giá trị mà người đời sau càng bồi đắp càng làm đẹp thêm cho kỳ quan này.
Ảnh: Đỗ Hữu Lực
Vịnh Hạ Long rộng 1.533km2. Địa hình Hạ Long là đảo, núi xen kẽ giữa các trũng biển, là vùng đất mặn có sú vẹt mọc và những đảo đá vôi, vách đứng tương phản nhau.

Kỳ 1: Mỗi đảo là một kỳ quan

Năm 1994, Hội đồng Di sản thế giới đã công nhận vịnh Hạ Long là di sản thế giới về cảnh quan, và đến năm 2000 vịnh Hạ Long lại vinh dự được Hội đồng Di sản thế giới lần thứ hai công nhận về giá trị thiên nhiên huyền ảo của nó.
Rừng đảo đá
Những ai đã từng đến vịnh Hạ Long đều có cảm giác như đi giữa một thế giới động vật trải qua hàng triệu năm hóa đá, mỗi đảo có một hình thù kỳ lạ. Theo thống kê của ban quản lý vịnh Hạ Long, hiện nay trên vịnh có 1.969 hòn đảo, trong đó có 900 hòn đảo được đặt tên. Đảo trên vịnh Hạ Long có chỗ quần tụ lại, nhìn xa ngỡ chồng chất lên nhau, nhưng cũng có chỗ đảo đứng dọc ngang, xen kẽ nhau, tạo thành tuyến chạy dài hàng chục kilômet như một bức tường thành vững chãi ngăn khơi với lộng nối mặt biển với chân trời.
Ông Nguyễn Thanh Sĩ, nguyên giám đốc Sở VH-TT tỉnh Quảng Ninh, và cũng là một nhà nghiên cứu về vịnh Hạ Long, cho rằng sở dĩ năm 1994 vịnh Hạ Long được công nhận là di sản thế giới lần thứ nhất vì giá trị thẩm mỹ, vịnh Hạ Long có vẻ đẹp tạo dáng cực kỳ phong phú của các đảo đá với qui mô khác nhau phân bố trên diện rộng hàng ngàn kilômet vuông. Bên cạnh đó là vẻ đẹp của các hang động, hệ sinh thái đa dạng quí hiếm.
Đảo trên vịnh Hạ Long không giống bất kỳ hòn đảo nào ở VN - Ảnh: Lê Bích
Theo thống kê của ban quản lý vịnh Hạ Long, trong số 1.969 đảo của vịnh Hạ Long có đến 1.921 đảo đá. Mỗi đảo đá ngoài dáng vẻ kỳ lạ trầm mặc như một phác thảo tượng đài soi bóng xuống mặt vịnh, còn mang trên mình một thảm thực vật đặc trưng, phong phú và tuyệt diệu mà cho đến nay vẫn là tấm màn bí mật với nhiều người.
Báo cáo của Văn phòng tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế cho biết thảm thực vật trên đảo đá của Hạ Long gồm 1.000 loài. Thiên nhiên đá vôi với môi trường biển độc đáo cho thấy bảy loài thực vật chỉ thích nghi với điều kiện sống trên các đảo Hạ Long mà chưa thấy nơi nào khác trên thế giới như: thiên tuế Hạ Long, cọ Hạ Long, khổ cử đại nhung...
Đặc biệt, trên đảo đá của vịnh Hạ Long, mấy năm gần đây các nhà khoa học đã phát hiện một giống trúc mọc ngược, khác với các cây trúc khác khi mọc cành chĩa lên trời, còn cây trúc Hạ Long khi mọc lại chĩa cành xuống đất. Loài trúc này gần đây thường được dân vạn chài dùng làm cần câu hải sản rất chắc chắn.
Các đảo đá đổ bóng râm xuống vịnh và chân đảo nhiều hang hốc nên các loài cá đáy, cá lớn, cá dữ sống gần bờ thường cư ngụ, quanh quẩn trong rừng đảo. Tài liệu của Phân viện Hải dương học Hải Phòng cho thấy Hạ Long có 1.151 loài động vật thì đã gần 500 loài cá, 57 loài cua... Tài liệu lưu giữ ở Bảo tàng Quảng Ninh cho biết vào năm 1898, tờ Tin Tức Hải Phòng xuất bản bằng tiếng Pháp đưa tin: “Rồng xuất hiện trên vịnh Hạ Long!”.
Theo lời kể của viên thiếu uý Pháp Legderin, thuyền trưởng tàu Avalence, có gặp một đôi rắn biển khổng lồ trên vịnh Hạ Long. Mỗi con vật kỳ lạ này dài 20m, trong đó đầu và cổ dài chừng 4m, thân con vật phủ một lớp lông ngắn và màu nâu. Còn trong tập du ký Hải Long của ông Nguyễn Tiến Phước là nhân viên hải quan của Pháp trên tàu Espadon thường xuyên tuần tiễu trên vùng biển Hạ Long, ông Phước kể lại rằng ông cùng thủy thủ đoàn đã ba lần chứng kiến đôi rắn biển này xuất hiện trên vịnh Hạ Long vào các năm 1898, 1900 và 1902.
Trải qua hàng triệu năm, hình thù chạm khắc quanh chân đảo trở nên muôn hình muôn vẻ - Ảnh: Đỗ Hữu Lực
Những hình hài đá bí ẩn
Đảo trên vịnh Hạ Long không giống bất kỳ hòn đảo nào ven biển VN, đó là một thế giới sống động những sinh linh ẩn hiện trong biết bao hình hài bí ẩn bằng đá.
Đảo này giống ông già ngồi câu cá (hòn Lã Vọng), đảo kia tựa như nhà sư đứng giữa mặt vịnh bao la chắp tay niệm Phật (hòn Ông Sư), đảo nọ y hệt đôi gà chọi nhau trên sóng nước hay gọi là hòn Trống Mái hoặc hòn Gà Chọi... Tưởng chừng như các đảo đá đều có nội tâm.
Du ngoạn trên vịnh Hạ Long, du khách thường chú ý vào chân các đảo đá, chỗ mấp mé mặt nước. Ở đây bao đời qua biển cả đã cần cù chạm khắc vào chân đảo nhiều hình thù kỳ dị, tầng tầng lớp lớp, trông xa tựa bức phù điêu lượn quanh chân đảo.
Trải qua hàng triệu năm, với sự tác động của nước biển, hình thù chạm khắc quanh chân đảo hằn sâu khiến nhiều chân đảo trở nên muôn hình muôn vẻ. Điểm xuyết giữa thế giới điêu khắc kỳ lạ còn ở dạng phác thảo ấy là những khối kiến trúc uy nghi tạo dựng bởi bàn tay của tạo hóa. Nhà thơ Reuy Alay (New Zealand) khi đến thăm các đảo đá trên vịnh Hạ Long đã làm một bài thơ có tựa đề Hạ Long. Bài thơ có câu: “Trên mặt biển Đông Nam/Mỗi đỉnh một kỳ quan”.
Hơn 600 năm trước, Nguyễn Trãi sau khi từ quan để về Côn Sơn ở ẩn đã có một chuyến chu du dài ngày tới vùng non nước Đông Bắc. Nguyễn Trãi đã sửng sốt trước vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ mộng của vịnh Hạ Long và thốt lên: “Thiên khôi địa thiết phó kỳ quan” (Kỳ quan đất dựng giữa trời cao).
Theo nhà nghiên cứu văn hóa vịnh Hạ Long Nguyễn Thanh Sĩ, các đảo của vịnh Hạ Long có tên gốc là tên chữ nôm do những người làm nghề chài lưới, sơn tràng, lính đồn trú sinh sống trên vùng biển Hạ Long từ xa xưa phát hiện và đặt tên như hòn Oản, hòn Dù Dì, hòn Ghềnh Đám…
Trải qua bao biến cố của tự nhiên và lịch sử, một số không ít đảo mất tên nôm gốc, mang tên âm mới Hán Việt hoặc tên tiếng Hoa và tiếng Pháp như Tuần Châu, Minh Châu, Cẩu Thầu Chảy, Cống Tàu, Êcăng, Latáp…
Đảo trên vịnh Hạ Long được đặt tên căn cứ vào hình dáng (giống người hoặc vật nào thì đặt tên của người hoặc vật đó); hay căn cứ vào sự tích dân gian, những sự kiện lịch sử (núi Bài Thơ, hang Trinh Nữ); hoặc căn cứ vào những đặc sản có trên đảo hay vùng biển quanh đảo để đặt tên (Ngọc Vừng, hòn Kiến Vàng, đảo Khỉ...).
Hang động vịnh Hạ Long cũng nổi tiếng bậc nhất thiên hạ. Báo cáo của ban quản lý vịnh Hạ Long cho biết hiện nay vẫn chưa thể thống kê hết được tất cả hang động trên 1.969 đảo. Từ đầu thế kỷ 20, các nhà thám hiểm địa chất người Pháp khi nghiên cứu về vịnh Hạ Long đã khẳng định hang động vịnh Hạ Long được kiến tạo trong thế Pleistocen kéo dài từ 2 triệu đến 11 ngàn năm trước.
Trong những hang động đã phát hiện và khai thác phục vụ tham quan du lịch mới chỉ có 10 hang động như hang Đầu Gỗ, động Thiên Cung, hang Trinh Nữ... Có hang rộng thênh thang như tòa lâu đài lộng lẫy, có hang như một địa đạo chật hẹp, dicdăc, trần vòm cuốn lô nhô những nhũ đá to nhỏ... Không hang nào giống hang nào. Mỗi hang đem lại cho người xem sự kỳ thú khác nhau, sự phát hiện mới lạ khác nhau.
HỮU LỰC - THI CẢNH - HỒ VĂN
Trở lại hòn đảo đặt tên mình sau gần 40 năm, Ghecman Titôp - người anh hùng phi công vũ trụ của Liên Xô (cũ) - rưng rưng nước mắt.

Kỳ 2: Câu chuyện đảo Titốp
Cau chuyen dao Titop
Tấm ảnh lịch sử: Bác Hồ và nhà du hành vũ trụ Ghecman Titôp thăm vịnh Hạ Long năm 1962 - Ảnh tư liệu

LTS - Ít ai biết được rằng Ghecman Titôp đã trở lại hòn đảo đặt tên mình sau gần 40 năm. Người anh hùng phi công vũ trụ của Liên Xô (cũ) năm xưa đã rưng rưng nước mắt đứng lặng trước tấm bia ghi sự kiện một hòn đảo đẹp của di sản thế giới do chính Bác Hồ đặt tên.
Hòn đảo của tình hữu nghị
Cụ Nguyễn Văn Cải, 96 tuổi, là ngư dân cao tuổi nhất làng chài Cửa Vạn trên vịnh Hạ Long, cho hay trước đây dưới thời Pháp thống trị thì đảo Titôp có tên gọi khá rùng rợn là đảo Nghĩa Địa, hay còn gọi đảo Hồng Thập Tự.
Sở dĩ có tên gọi này là do năm 1905, một tàu chở hàng của Pháp khi vào vịnh Hạ Long do không có hoa tiêu thông thạo luồng lạch đã đâm vào đá ngầm, bị đắm ở vũng Con Cóc, các thủy thủ đoàn thiệt mạng được đưa về chôn ở đảo này. Từ đó, dân chài ít dám đến khu đảo này khai thác hải sản, đảo trở nên hoang sơ. Cụ Cải nói rằng mãi đến năm 1965, dân làng chài trên vịnh Hạ Long mới biết hoang đảo này có tên gọi là đảo Titôp.
Tài liệu của Bảo tàng Quảng Ninh còn lưu giữ có ghi rõ sự kiện đảo Titôp được Hồ Chủ tịch đặt tên. Ngày
22-1-1962, Bác Hồ đi thăm vịnh Hạ Long lần thứ năm, cùng đi với Bác có anh hùng phi công vũ trụ Liên Xô (cũ) Ghecman Titôp. Tại đảo, Hồ Chủ tịch đã cùng Titôp tắm biển và người anh hùng phi công vũ trụ tỏ ra thích thú thấy bãi tắm có doi cát, nước biển sạch không kém các bãi tắm phương Tây. Tại bãi tắm, Bác Hồ nói với Titôp rằng để ghi nhớ sự kiện một phi công vũ trụ Liên Xô đến thăm Hạ Long và biểu thị tình hữu nghị hai nước Việt - Xô, Bác đề nghị lấy tên Titôp đặt cho đảo. Và Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ninh trong kỳ họp tháng 5-1962 đã ra nghị quyết đổi tên đảo thành Titôp.
Trưởng ban quản lý vịnh Hạ Long Ngô Hùng cho biết sau khi vịnh được đưa vào danh sách di sản thế giới năm 1994, trong lịch trình tham quan trên vịnh Hạ Long, đảo Titôp là một trong những điểm đến hấp dẫn du khách vì ở đây có bãi tắm đẹp nhất và sạch nhất vịnh Hạ Long được đưa vào khai thác.
Mấy năm gần đây, địa điểm này được ban quản lý vịnh đưa vào khai thác một loạt dịch vụ du lịch hấp dẫn khác như bay tàu lượn, nhảy dù, lặn biển, bơi thuyền kayak... khiến đảo lúc nào cũng tấp nập du khách. Ngày 21-7-2007, sau một tuần vịnh Hạ Long được đưa vào danh sách đề cử là kỳ quan thiên nhiên thế giới, ban quản lý vịnh đã lắp đặt mạng Internet không dây trên đảo Titôp để du khách tham quan có thể dễ dàng vào laptop tham gia bình chọn.
Cau chuyen dao Titop
Đảo Titôp của vịnh Hạ Long có bãi tắm đẹp và sạch nên thu hút đông đảo du khách - Ảnh: Đ.H.Lực
Chứa chan tình người
Chủ tịch UBND TP Hạ Long Nguyễn Văn Tuấn, nguyên trưởng ban quản lý vịnh Hạ Long, nhớ lại một buổi sáng mùa hè năm 1999 ông nhận được điện thoại từ Hà Nội báo rằng chuẩn bị đón Ghecman Titôp đi thăm vịnh Hạ Long, sắp xếp tàu xuồng đón Titôp sẽ đến chỉ sau vài tiếng.
Ông Tuấn kể: “Trái ngược với suy nghĩ của tôi là anh hùng phi công vũ trụ phải to lớn và đường bệ, Ghecman Titôp xuất hiện trước mặt tôi là một ông già tầm thước, cao chừng 1,67m, chỉ nhỉnh hơn tôi một tí”. Lần này sang thăm VN, Ghecman Titôp đi cùng các nhà khoa học nước ngoài do Liên hiệp Các tổ chức hữu nghị VN mời, đó là một chuyến đi không ồn ào.
Tàu rẽ sóng đưa đoàn du khách ra vịnh Hạ Long, đứng bên cạnh lan can tàu, Titôp nheo mắt trước nắng và gió biển, kể lại cho khách trong đoàn nghe về kỷ niệm được cùng lãnh tụ VN Hồ Chí Minh du ngoạn trên vịnh Hạ Long cách đây 37 năm. “Tôi còn được tắm biển với Hồ Chủ tịch và Người bơi rất giỏi!”, Titôp khoa hai tay làm động tác bơi lội làm mọi người cười vui vẻ.
Ông Tuấn nhớ rằng khi tàu thả neo cập bến đảo Titôp, người anh hùng phi công vũ trụ đã gần 70 tuổi nhanh nhẹn nhảy xuống bãi cát khiến ai cũng lo lắng. Titôp chỉ tay về phía bãi tắm và thốt lên với vẻ vui mừng bằng tiếng Nga: “Đông quá, đông quá, sao lại đông thế nhỉ?”. Ông Tuấn đưa Titôp đến bên tấm bia ghi sự kiện đảo được đặt tên người anh hùng. Titôp đưa hai tay ôm ghì lấy tấm bia, rưng rưng nước mắt. Và tại đảo Titôp, người anh hùng phi công vũ trụ đã run run ghi nắn nót từng nét chữ vào sổ lưu niệm: “Cảm ơn số phận đã cho tôi có dịp trở lại hòn đảo nhỏ xinh đẹp này! Ghecman Titôp”.
Trước khi rời hòn đảo mang tên mình, Titôp nói với ông Tuấn: “Sau gần 40 năm trở lại, tôi rất xúc động với tình cảm trước sau như một của người dân VN, các bạn vẫn còn nhớ đến tôi”. Titôp hứa với ông Tuấn sẽ cố gắng thu xếp thời gian để đưa gia đình sang thăm đảo một dịp gần nhất. Ông Tuấn bỗng trầm giọng xúc động cho hay vào năm 2001, qua phương tiện truyền thông nghe tin Titôp mất sau một cơn bạo bệnh, Ban quản lý vịnh Hạ Long đã tổ chức một lễ truy điệu long trọng người phi công vũ trụ Liên Xô trên đảo Titôp và cho một chiếc tàu chạy vòng quanh đảo thả những vòng hoa viếng xuống mặt vịnh.
Một ngày hè năm 2006, phu nhân của Ghecman Titôp đã thực hiện lời hứa của chồng. Từ Nga sang thăm VN, bà đã đến vịnh Hạ Long, một mình đi tha thẩn trên bãi cát vàng mà ngày trước chồng bà đã cùng được tắm với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đứng lặng trước tấm bia ghi sự kiện đảo mang tên Titôp và khóc.
Hướng dẫn viên trên đảo Titôp Nguyễn Mạnh Hiền cho hay khi bà Titôp được nghe kể lại sự kiện Titôp được đặt tên và sự kiện tổ chức lễ truy điệu Titôp trên đảo, bà đã cảm động nói rằng: “Các bạn là những người thân của gia đình Titôp, Hạ Long thật tuyệt vời và chứa chan tình người!”.
ĐỖ HỮU LỰC - HỒ VĂN
Đề cử cho vịnh Hạ Long
- Sau khi bảy kỳ quan nhân tạo của thế giới được công bố hôm 7-7-2007, các nhà tổ chức đã phát động chương trình bầu chọn bảy kỳ quan tự nhiên của thế giới. Vịnh Hạ Long của VN đã được ban tổ chức giới thiệu.
- Bạn đọc có thể vào trang web http://www.natural7wonders.com/ và đề cử cho vịnh Hạ Long. Ban tổ chức cho biết muốn tập hợp ý kiến khắp năm châu trước khi công bố danh sách 21 “ứng cử viên” sáng giá. Sau giai đoạn đề cử này là kỳ bỏ phiếu chính thức và kết quả sẽ được công bố vào ngày 8-8-2008. Theo Tổ chức NewOpenWorld, tiêu chuẩn của các đề cử phải là những địa điểm thiên nhiên hay những tuyệt tác thiên nhiên mà bàn tay con người không hề tác động tới.
- VN đang có thuận lợi là vịnh Hạ Long đã được ban tổ chức nêu ra trong các ví dụ hướng dẫn cách bỏ phiếu đề cử.
M.H.


Kỳ 3: Kỳ quan huyền ảo

Năm 1937, ông Vũ Xuân Tảo - công nhân lò nấu thủy tinh - trong lúc đào cát để làm nguyên liệu chế tạo thủy tinh đã tình cờ phát hiện được một chiếc rìu đá trên đảo Ngọc Vừng. Phát hiện này đã gây xôn xao các nhà khảo cổ học Pháp thời ấy, bước đầu xác định Hạ Long không chỉ là kỳ quan thiên nhiên mà còn là cái nôi của người tiền sử.
Dấu vết người tiền sử
Nhà nghiên cứu vịnh Hạ Long Nguyễn Thanh Sĩ còn lưu giữ bản công bố của nhà khảo cổ học Andecxen (Thụy Điển) và của hai chị em Colani (Pháp). Sau nhiều tháng tìm tòi trên các đảo đá vịnh Hạ Long, họ đã đi đến nhận định chung: “Những công cụ đá, đồ đựng bằng gốm, đồ trang sức bằng đá, bằng xương... đã được phát hiện và thu thập ở Hạ Long đều thuộc thời đại hậu kỳ đá mới - thời đại của người tiền sử”.
Các nhà khoa học Pháp đã xếp những di chỉ khảo cổ ở Hạ Long có cùng đặc điểm vào trong khái niệm “văn hóa Danhdola”. “Danhdola” là tên đảo Ngọc Vừng do người Pháp đặt.
Sau này, khi miền Bắc được giải phóng, các nhà khoa học VN và các chuyên gia khảo cổ học Liên Xô đã tiến hành nhiều cuộc thám sát, điều tra trên diện rộng và qui mô lớn. Một phát hiện gây chấn động những năm 1960 tại di chỉ Tấn Mài - vịnh Hạ Long với những mảnh ghè của người vượn và tiếp đó là khai quật được những mũi tên đồng của thời Hùng Vương.
Các nhà khoa học đã khẳng định: Đã từng có một nền văn hóa Hạ Long cách nay từ 3.500-5.000 năm. Từ thời hậu kỳ đá mới đã có con người sinh sống trên vịnh Hạ Long, dấu vết của người tiền sử đã được phát hiện tại các di chỉ Hang Luồn, Soi Nhụ và Tiên Ông... gồm đồ đá và tàn tích thức ăn, người tiền sử đã xác định được vai trò “kinh tế biển” đối với đời sống con người từ ngàn năm trước.
Co mot nen van hoa Ha Long
Du khách nước ngoài đi thuyền kayak trên vịnh Hạ Long - Ảnh: Đ.H.Lực
Đến thời kỳ lập nước và giữ nước, vịnh Hạ Long còn đóng vai trò quan trọng về an ninh và phát triển kinh tế đất nước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Kỷ Tỵ, (Đại Định) năm thứ 10 (1149). Mùa xuân, tháng hai, thuyền buôn ba nước Trảo Oa, Lộ Lạc, Xiêm La vào cảng Hải Đông (vịnh Hạ Long) xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở hải đảo, gọi là Vân Đồn, để mua bán hàng hóa quí, dâng tiến sản vật địa phương”.
Và thương cảng Vân Đồn đã hình thành từ đó. Theo ông Nguyễn Thanh Sĩ, lý do nhà Lý chọn Vân Đồn bên vịnh Hạ Long làm thương cảng là vì vùng này có nhiều đảo đất, đảo đá ngang dọc, chia cắt biển thành nhiều vũng, luồng lạch sâu và kín gió. Thuyền bè neo đậu an toàn, không bị gió bão uy hiếp.
Năm 1964, trong một lần khai quật khảo cổ tại thương cảng cổ Vân Đồn, các nhà khảo cổ đã tìm được những đồng tiền Tây Ban Nha đúc từ năm 1762, chứng tỏ nó đã qua nhiều cửa khẩu trước khi đến Vân Đồn, điều đó cho thấy phạm vi buôn bán của thương cảng Vân Đồn - vịnh Hạ Long ngày ấy đã vươn tới một số nước Tây Âu.
Bức tường thành trên biển
Trưởng ban quản lý vịnh Hạ Long Ngô Hùng cho hay căn cứ vào các tài liệu còn lưu giữ ở Bảo tàng Quảng Ninh thì con người đến các đảo Hạ Long cư trú và lập nghiệp, không kể người thời đại đồ đá, sớm nhất là vào thế kỷ thứ VI. Người dân sinh sống đông đúc bắt đầu từ khi thương cảng Vân Đồn thành lập và phát triển.
Trong số 1.969 đảo của Hạ Long chỉ có 40 đảo là có dân sinh sống, những đảo này có qui mô từ vài chục đến hàng ngàn hecta và những đảo có dân sinh sống tập trung chủ yếu ở phía đông và đông nam vịnh Hạ Long. Mấy chục năm gần đây, nhiều vạn chài sống trôi nổi trên mặt nước, bắt đầu lên một số đảo định cư biến những đảo hoang sơ trở thành trù phú như Sa Tô (TP Hạ Long), đảo Thắng Lợi (huyện Vân Đồn)...
Ý kiến bạn đọc
Ngày 7-7-2007, qua truyền hình, tôi nhìn thấy người dân ở các quốc gia có kỳ quan ứng cử danh sách bảy kỳ quan mới của thế giới đã đổ xuống đường vận động cho quốc gia mình, từ tổng thống cho đến người dân cùng chung một nhịp đập. Nhìn hình ảnh ấy, tôi xúc động lắm, và ước rằng giá như một ngày nào đó VN có cái tên đề cử.
Khi được biết Tổ chức NewOpenWorld mời mọi người đóng góp ý kiến bình chọn danh sách kỳ quan thiên nhiên thế giới, tôi đã vào trang webwww.natural7wonders.com để bầu chọn vịnh Hạ Long. Nhìn cái tên vịnh Hạ Long được ban tổ chức lấy làm ví dụ để hướng dẫn cách bỏ phiếu đề cử, tôi cũng tự hào lắm. Tôi click chuột đề cử cho vịnh Hạ Long mà lòng rộn ràng bởi hiểu rằng tôi đang bầu chọn cho đất nước của mình, cho dân tộc mình.
NGUYỄN KIM THÀNH
(Đà Nẵng)
Khác với vùng biển khác trên đất nước VN thường có sóng to gió lớn, vịnh Hạ Long với hàng ngàn hòn đảo như bức tường thành ngăn sóng và bão lớn. Với điều kiện như thế, thuyền đi lại như trong ao hồ trên đất liền.
Ở các vùng biển khác, tàu và thuyền đánh cá chỉ dành cho đàn ông khỏe mạnh, nhưng ở Hạ Long tàu thuyền không chỉ là phương tiện đánh cá mà còn là nhà của họ, là nơi ăn ngủ và cả thờ cúng tổ tiên. Những người dân chài trên vịnh Hạ Long gắn bó cả cuộc đời với những con thuyền của họ từ khi sinh ra, lớn lên, lấy vợ gả chồng và cho đến cả khi trở về cõi vĩnh hằng.
Chỉ tay vào phía trong khoang thuyền, anh Nhật - một ngư dân vạn chài Hạ Long - nói rằng bao đời nay con thuyền của dân chài Hạ Long vẫn thế, dù to hay nhỏ đều có ba khoang: khoang mũi, khoang giữa và khoang sau.
Trong đó, khoang giữa là khoang chính có mui chắc chắn và cố định dùng để thờ tự ông bà và cũng là nơi ngủ của bố mẹ và con cái nhỏ. Khoang mũi là nơi để ngư cụ, thả lưới và giăng câu. Khoang sau (khoang lái) thường có mui, là nơi ngủ của con cái lớn chưa lập gia đình, và khi nào lập gia đình thì hai bên gia đình phải gom góp làm một thuyền mới cho đôi trẻ một chiếc thuyền như thế.
Hơn chục năm trở lại đây, một số dân vạn chài làm ăn khá đã sáng tạo ra kiểu làm nhà trên bè cá lồng, tuy nhiên hầu hết các hộ vẫn có một chiếc “thuyền nhà” như đã kể để mưu sinh.
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Đỗ Kha là người sinh ra và lớn lên trên vịnh Hạ Long, anh cho hay hiện nay hầu hết dân chài đã dùng thuyền có lắp máy thủy, không còn dùng buồm như trước.
Năm 2003, cánh buồm cuối cùng của gia đình ông Nguyễn Văn Tuấn, ngư dân làng chài Vông Viêng, đã được bán cho một gia đình ngư dân của đảo Hà Nam (Yên Hưng), kể từ đó vịnh Hạ Long vắng bóng những cánh buồm nâu thơ mộng.
Chị Nguyễn Thị Minh, ngư dân làng chài Cửa Vạn, cho biết hiện nay dấu xưa đọng lại của làng chài cổ là những câu hát giao duyên xưa vẫn còn được lưu truyền đến hôm nay mà lớp thanh niên nam nữ làng chài hầu như ai cũng thuộc, đó lối hát đúm, hò biển và hát đám cưới.
Cụ Nguyễn Văn Cải, 96 tuổi, ngư dân cao tuổi nhất của làng chài Cửa Vạn, tự hào rằng hát đám cưới của Hạ Long không kém gì lối hát của người quan họ Kinh Bắc. Cụ Cải cho hay đám cưới của vịnh Hạ Long cũng độc nhất vô nhị vì theo phong tục chỉ được tổ chức trong những ngày rằm, do đây là lúc trên vịnh có trăng sáng, cá ăn tản, người dân chài không đi đánh cá.
Và những đêm trăng ấy, biển Hạ Long lung linh và huyền ảo. Thuyền nhà trai đến thuyền nhà gái đón dâu, thay bằng những lời chào hỏi, chúc tụng là những câu hát đối đáp vui vẻ. Cụ Cải cho biết nếu nhà trai hát “thắng” thì nhà gái mới “chịu” mở ngõ cho thuyền mình làm lễ gia tiên và đón dâu. “Tất nhiên là bao giờ nhà trai cũng thắng và nhà gái bao giờ cũng giả vờ thua”, cụ Cải cười vui vẻ.
HỮU LỰC - THI SẢNH - HỒ VĂN
________________________
Làng chài Cửa Vạn là mô hình trung tâm văn hóa nổi đầu tiên dành cho cộng đồng ngư dân vạn chài. Vịnh Hạ Long trở thành di sản thiên nhiên thế giới thì “phố biển” ấy cũng trở thành một phần của di sản.
Kỳ tới: “Phố biển” trong lòng di sản


Hang Soi Nhụ - Di chỉ khảo cổ về người Việt cổ

Hang Soi Nhụ - Di chỉ khảo cổ về người Việt cổ 

Hang Soi Nhụ, còn được gọi là hang Miếu, cách áng Trà Thần khoảng 6 km đường biển về phía tây nam, cách cảng Cái Rồng khoảng 8 km. Đây là điểm dừng chân để du khách có cơ hội tìm hiểu về một trong những nơi phát tích của nền văn hóa người Việt thời tiền sử, và minh chứng cho lịch sử phát triển rất lâu đời của vùng đất này
Hang Soi Nhụ được khảo sát từ năm 1964 và khai quật năm 1967. Hang phân thành 3 ngăn: ngăn dưới, ngăn giữa và ngăn trên. Hang trên có kích thước nhỏ, nền cao 12 m so với mực nước biển, nền hang toàn cát, phân dơi và xương cá do chim ăn để lại. Từ nền tới trần cao 3,4m, rộng 3,5m, sâu 3,7m. Hang giữa là đối tượng chủ yếu của cuộc khai quật năm 1967. Hang này có chiều cao từ nền tới trần là 1,7m, nền hang nơi sâu nhất là 3,4m, nơi rộng nhất là 3,6m.
Những di vật tìm thấy ở hang Soi Nhụ có: 10 chiếc đồ đá gồm 2 công cụ đá ghè đẽo, 3 rìu đá mài, 2 hòn cuội tự nhiên, 2 mảnh bàn mai, 1 chày đá. Đồ gốm hang Soi Nhụ đều là những mảnh vỡ vụn, có hai mảnh tương đối lớn của một chiếc nồi thấy trong tầng vỏ ốc sát vách hang dưới. Căn cứ vào các mảnh miệng, hoa văn, và màu sắc, nhà khảo cổ học Đỗ Văn Ninh phán đoán tổng số hiện vật gốm ở đây có 4 chiếc khác nhau, được trang trí bằng văn đắp thêm hình nàn sóng, “văn chải”, văn “nan rá”.
Hang dưới có nền hang cao khoảng 1 m so với mực nước thủy triều cao nhất. Hang rộng 12 m, cao 9 m, sâu 21 m. Tầng văn hóa bao gồm các vỏ ốc biển gắn kết với đất cát rất rắn, dày 1,5 m. Trong tầng văn hóa có 1 xương chi bò và 400 đốt xương sống cá và các loại vỏ ốc tích tụ thành tầng dày 1,5m ở phía vách hang dưới. Điều đó chứng tỏ các chủ nhân đã sống ở đây khá lâu và phương thức sống chủ yếu là bắt sò ốc, hái lượm hoa quả, đào củ, rễ cây. 
Theo nhà khảo cổ học Nguyễn Văn Hảo, di tích Soi Nhụ bao gồm 2 nền văn hóa thuộc hai thời đại hoàn toàn khác nhau. Hang giữa chứa trầm tích Pleistocene và đặc biệt là các công cụ đá được chế tác ở trình độ thấp, chủ yếu vẫn là lợi dụng các mảnh tước cuội, ghè sơ qua một mặt để sử dụng và các tích tụ nhuyễn thể nước ngọt. Niên đại của 4 mẫu vỏ nhuyễn thể nước ngọt lấy từ ngăn giữa dao động từ 12.500 đến 15.650 năm cách ngày nay, thuộc giai đoạn sơ kỳ đá mới. Điều đó chứng tỏ rằng thời gian ấy khu vực Bái Tử Long, Hạ Long vẫn là đất liền và đường bờ biển cổ lúc đó ở rất xa bên ngoài vùng này. 
Cũng theo Nguyễn V
ăn Hảo thì chiếc nồi được tìm thấy trong tầng ốc biển ở vách hang dưới lại có hình dáng, chất liệu và được trang trí bằng văn thừng mang đặc trưng của gốm Văn hóa Hạ Long - thuộc Hậu kỳ đá mới cách ngày nay 4000-5000 năm.
Trong Vịnh Bái Tử Lòng chắc chắn còn rất nhiều hang động chưa được phát hiện và khám phá. Hy vọng những cuộc khai quật tiếp theo sẽ phát hiện được thêm nhiều di chỉ khảo cổ để minh chứng cho nền văn hóa Soi Nhụ và nguồn gốc của Văn hóa Hạ Long.

Thứ Bảy, 7 tháng 7, 2012

NÔNG NGHIỆP Ở ĐÔNG NAM Á THỜI TIỀN- SƠ SỬ (TƯ LIỆU VÀ VẤN ĐỀ)

Nông nghiệp ở Đông Nam Á thời tiền sử - tư liệu và vấn đề

I. Về nguồn gốc nông nghiệp và trồng lúa nước:

 

Những nghiên cứu khảo cổ cho tới nay đã xác nhận rằng những người làm nông nghiệp sớm là cư dân chủ nhân của những địa điểm đá mới vùng Tây Nam Á, Đông Nam Á, châu Phi, châu Âu…
Căn cứ vào tài liệu cổ thực vật học và niên đại C14:
- Lúa mì và lúa mạch đã được trồng ở Trung Đông vào thiên niên kỷ thứ 8 trước Công nguyên;
- Kê ở Trung Hoa vào thiên niên kỷ thứ 7 trước Công nguyên,
- Bí ở Mexico vào thiên niên kỷ thứ 8 trước Công nguyên.
- Rau được tìm thấy ở Thessaly và Macedonia khoảng thiên niên kỷ thứ 6 trước Công nguyên… 

Về lý thuyết, để nơi nào đó trở thành cái nôi của nông nghiệp thì luôn cần hội đủ ba điều kiện sau:
1. Cuộc sống của con người đã được định cư hóa thành các làng mạc;
2. Con người biết gieo trồng để thu hoạch;
3. Con người đã rất có kinh nghiệm trong việc hái những giống cây được thuần hóa sau đó
[1].

Cho đến nay, đã có tới 6 (sáu) nơi được xác định là quê hương của nông nghiệp và chúng tồn tại hoàn toàn độc lập với nhau.
Tuy vậy, chung quanh vấn đề này có rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập với nhau.

Tư liệu cổ thực vật và quan sát điền đã cho thấy rằng quá trình phân hóa và đa dạng hóa từ những dạng cây ngắn hạn (một năm) hoang dại sang những cổ típ sớm của dạng cây được trồng ở Nam Á và Đông Nam Á lục địa được đẩy nhanh hơn do những thay đổi khí hậu rõ rệt trong thời kỳ Neothermal cách đây từ 15.000 đến 10.000 năm.

Quá trình chọn lọc giống sớm và thuần dưỡng ban đầu có thể đã xuất hiện một cách độc lập và gần như đồng thời ở nhiều địa điểm bên trong hay bên cạnh Dải Phát sinh giống ban đầu (broad belt of primary genetic diversity) trải dài từ đồng bằng sông Hằng dưới chân núi phía đông của Himalaya, qua Thượng Myanmar, Bắc Thái Lan, Lào, Bắc Việt Nam tới Tây Nam và Đông Nam Trung Hoa
[2].

Về nguồn gốc và niên đại xuất hiện của nghề trồng lúa, cũng có những ý kiến và giả thiết khác nhau. 
Đa số ý kiến cho rằng nguồn gốc của trồng trọt và chuyển từ khai thác tự nhiên sang thuần dưỡng cây, thuần hóa con có liên quan đến những biến đổi về môi trường tự nhiên, đặc biệt là điều kiện khí hậu và những hiện tượng sinh thái khác.

Liên quan trực tiếp tới việc xác định cái nôi của nghề trồng lúa ở châu Á, hiện nay cũng có không ít ý kiến từ Assam, Vân Nam, Vòng cung Đông Á, đến miền Trung và Hạ lưu sông Dương Tử… Tài liệu khảo cổ học cho thấy, địa điểm trồng lúa sớm nhất hiện nay được tìm thấy ở Trung và Hạ lưu sông Dương Tử với niên đại từ 7 đến 8 nghìn năm trước Công nguyên.

Dựa trên các tài liệu từ cổ thực vật học, cổ dân tộc học và khảo cổ… cho tới nay có thể đưa ra giả thiết về một số trung tâm phát sinh nghề trồng lúa[3]:
1. Miền Nam Trung Hoa
2. Cao nguyên Vân Nam-Quý Châu
3. Bán đảo Nam Trung Hoa
4. Hạ lưu sông Dương Tử
5. Trung và Hạ lưu sông Dương Tử
6. Trung và Hạ lưu sông Hoàng Hà
7. Thuyết đa trung tâm
8. Lan toả từ bên ngoài vào (nguồn gốc Ấn Độ hay Đông Nam Á).

Dựa trên những vết tích lúa trồng phát hiện ở Trung Hoa, Yasuda cho rằng lúa đã được thuần dưỡng đầu tiên và sớm nhất ở miền Trung và Hạ lưu sông Dương Tử.
Như vậy niên đại của sự thuần hóa cây lúa lên tới trên 6.000 năm trước Công nguyên, và những giống lúa được thuần dưỡng đầu tiên gồm cả indica và japonica. Sau đó cây lúa được trồng ở miền Nam và Đông Nam Châu Á
[4].

Một điểm đáng lưu ý là chung quanh những trung tâm trồng lúa sớm nhất còn khá nhiều tranh luận và bàn cãi[5].
Có thể lấy ví dụ về trung tâm miền Nam Trung Hoa, do những niên đại của những phát hiện ở Nam Trung Hoa khá muộn, những phát hiện sớm nhất ở Dongchang (Fuquing, Fujian); Shizishan (Nanan, Fujian); Zhishanyan (Taibei, Taiwan); Baiyangcun (Bichuan, Yunnan); Daduzi (Yunmou, Yunnan); và Haimenkou (Jianchuan, Yunnan)… . hầu như chỉ nằm trong khung niên đại từ khoảng 2.000 đến 1.500 năm trước Công nguyên
[6], và cũng chưa có nhiều niên đại được phân tích.

Nguyên nhân chính có lẽ là tình trạng nghiên cứu ở khu vực này, thứ nữa có thể do khí hậu nóng ẩm, với nhiều loại cây dại và việc hái lượm khá dễ dàng nên con người không có những động cơ để phát triển trồng trọt
[7].

Theo Xu Wangsheng, lúa có nguồn gốc từ miền Nam Trung Hoa và Đông Nam Á, nhưng chúng ta cũng chưa thể xác định được vị trí cụ thể và cần nhiều bằng chứng khảo cổ học hơn nữa.
Những dữ liệu khảo cổ học, điều kiện sinh thái và môi trường thuận lợi của Ấn Độ, Nam Trung Hoa và Đông Nam Á Lục địa mặt khác dẫn một số học giả đến giả thuyết rằng nơi bắt đầu của trồng lúa là ở Ấn Độ, Trung Hoa hay một nước châu Á nhiệt đới nào đó vào khoảng 10.000 năm hay thậm chí sớm hơn.

II. Nông nghiệp và trồng lúa ở Đông Nam Á (tư liệu và vấn đề).

II.1. Đông Nam Á Lục địa
II.1.1. Giai đoạn trồng vườn ở Đông Nam Á?
Đối với khu vực Đông Nam Á, một số nhà thực vật học và địa lý học cho rằng có một nền nông nghiệp trồng củ trước nông nghiệp trồng hạt – trồng lúa
[8].
Tuy vậy, giả thiết này hiện nay đang được xét lại do những chứng cứ về sự thuần hoá khá muộn của khoai từ (yam) trong khu vực vào khoảng 2000 năm trước Công nguyên
[9].

Có thể ở những vùng đồi núi, trồng rau củ ra đời trước trồng lúa theo kiểu nương rẫy, nhưng ở những vùng ngập nước, tình hình không phải như vậy.
Ở những vùng có khí hậu mát mẻ, ôn hoà, hạt lúa có vai trò quan trọng đối với những cư dân nông nghiệp sớm, vì họ có thể hái lượm, cất giữ và tiêu thụ chúng trong những tháng mùa đông
[10].

Đối với nhiều người nghiên cứu, vấn đề cốt lõi không phải là bản thân nghề trồng trọt được hình thành từ bao giờ, theo cách nào, mà chính là cách thức tổ chức xã hội/cấu trúc xã hội tương ứng với phương thức sinh tồn đó để giải quyết những vấn đề cơ bản, như: cất giữ giống, quyền sở hữu đất và cây trồng, phân công/cắt đặt sức lao động, phân phối mùa màng thu hoạch được…

Việc xem xét niên đại và cơ cấu của nông nghiệp Đông Nam Á tất nhiên cũng không nằm ngoài việc giải quyết những vấn đề cơ bản này.
 
II.1.1.1. Những tàn tích thực vật ở Hang Ma và thuyết về nguồn gốc Đông Nam Á của nông nghiệp sớm – tranh luận và quan điểm hiện nay:
 
Vào những năm 70-80 của thế kỷ trước, một số nhà nhân học thuộc đại học Hawaii đã công bố chứng cứ về thực vật “thuần hoá” tìm được ở Hang Ma, Đông Bắc Thái Lan, cách Mae Hong Son 60km về phía bắc gần biên giới Thái Lan, Myamar.

Ch.Gorman, người phát hiện Hang Ma đã thông báo rằng cùng với công cụ đá, tàn tích động vật, một khối lượng đáng kể những hoá thạch thực vật lớn (macro-fossils) đã được phát hiện ở các lớp văn hoá khác nhau:
- Lớp 4: Prunus (almond – quả hạnh), Terminalia, Areca (betal – trầu không), Vicia (bean – đậu) hay Phaseolus (bean – đậu), Pisum (pea – đậu) hay Raphia, Lagenaria (bottle gourd – bầu nậm), và Trapa (Chinese water chestnut – dẻ).
- Lớp trung gian 3/4: Piper (peper tree – cây ớt), Madhuca (butternut – bơ), Canarium, Aleurites (candlenut – quả lai) và Areca.
- Lớp 3: Canarium, Lagenaria, và Cucumis (cucumber – dưa chuột).
- Lớp 2: Piper, Areca, và Canarium.
 
Những phát hiện này đưa tới kết luận rằng chúng tạo thành một nhóm thức ăn thực vật của cư dân hái lượm đơn giản.

Điều đáng chú ý là những thực vật thuộc họ đậu chứng tỏ sự sử dụng rất sớm loại thực vật được thuần hoá (thực vật trồng)
[11].
Từ những phát hiện đó Solheim II đã cho rằng: “Đông Nam Á là khu vực phát sinh của nông nghiệp, khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của Đông Nam Á và ngược lại với những đánh giá về khu vực từ trước tới nay. Điều này làm thay đổi lịch sử và có thể làm thay đổi nhận thức rằng Trung Hoa không phải là nơi đầu tiên phát triển nông nghiệp ở vùng Viễn Đông”.

Thời gian sau, Solheim khẳng định “những phát hiện ở Hang Ma chống lại những thuyết chủ trương rằng “Vòng cung Màu mỡ” Cận Đông là nơi sản sinh nông nghiệp”
[12].
Tuy vậy, những phát hiện tại Hang Ma đã gây ra nhiều cuộc thảo luận và tranh cãi giữa các nhà khoa học, người ta nghi ngờ về tính chân xác trong xác định loài của những tàn tích thực vật ở đây.

Một vấn đề khác là sự hiện diện đáng ngạc nhiên của những thực vật nhiệt đới bên cạnh những thực vật của vùng khí hậu ôn hoà kiểu khí hậu Địa Trung Hải, cũng như việc xác định chưa chắc chắn những thực vật thuần hoá mà chủ yếu dựa vào những hạt thuộc họ đậu
[13]. Điều đáng nói ở đây là trong hàng trăm địa điểm văn hoá Hoà Bình ở Đông Nam Á, Hang Ma hầu như vẫn là địa điểm duy nhất có những phát hiện như thế cho đến nay.

Cùng với những phát hiện thực vật, tại Hang Ma cũng đã phát hiện một số mảnh gốm.
Dựa vào những mảnh gốm này, Solheim đã tuyên bố rằng Hang Ma là trung tâm của Cách mạng Đá Mới. Tuy vậy, gần đây những mảnh gốm này đã được định lại niên đại vào khoảng 1500 trước Công nguyên
[14].
 
Định nghĩa khái niệm chìa khóa “nông nghiệp” có nghĩa là trồng ngũ cốc, học giả người Trung Hoa Ho Ping-ti cho rằng chứng cứ từ Hang Ma không cho thấy dấu vết của nông nghiệp, nhất là khi sự xác định loài cây họ đậu còn bị nghi ngờ.
Trồng vườn sơ khai và trồng vườn không thể coi là nông nghiệp.
Như vậy, Đông Nam Á không phải là cái nôi của nông nghiệp sớm, mà là của trồng vườn
[15].

II.1.1.2. Nông nghiệp sớm ở Việt Nam (chứng cứ và vấn đề niên đại):

Theo một số nhà khảo cổ học Việt Nam, với văn Hoà Bình và Bắc Sơn nổi tiếng ở Việt Nam và Đông Nam Á (khoảng 10.000 năm cách ngày nay) các nhóm cư dân sống ở chân núi, dải đất ven sông bên cạnh hái lượm và săn bắt đã bắt đầu có những tri thức đầu tiên về trồng trọt.
Theo Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, đây được coi là màn dạo đầu của Cách mạng Đá Mới để phát triển nông nghiệp.

Trên thực tế, tại các địa điểm Văn hoá Hoà Bình đã phát hiện 22 loại bào tử và 40 loại phấn hoa, song không có bất cứ dấu vết nào của sự thuần hoá.
Cho đến tận ngày nay kể cả ở vùng Hoà Bình, thực vật bao phủ vẫn gồm cả đậu, củ từ và khoai sọ/nước.

Ngoài ra còn có một số chứng cứ không trực tiếp về nông nghiệp mà các nhà nghiên cứu thường đưa ra.
Đó là ở những lớp trên của hang Văn hoá Hoà Bình người ta tìm thấy rìu mài lưỡi, công cụ thường được xem là liên quan đến hoạt động phát quang rừng lấy đất trồng trọt. Hiện vật lớn giống cuốc tìm được ở hang Xóm Trại có những vết sử dụng như làm đất. 
 
Ở hang Xóm Trại cũng đã thấy vết tích gạo.
Theo phân tích của Đào Thế Tuấn (1982), lớp dưới là loại hạt dài, lớp trên cả hạt dài và tròn. Ông cho rằng đã có một quá trình tăng dần của thuần hoá lúa.
Tuy vậy, theo Hoàng Xuân Chinh, địa tầng phía trên ở Xóm Trại bị xáo trộn giống như nhiều hang văn hoá Hoà Bình khác, do vậy gạo tìm thấy ở đây không thể xem là chứng cứ về thuần dưỡng lúa.

Những chứng cứ về nông nghiệp Thời đại Đá Mới Việt Nam cho đến nay chỉ là những bằng chứng gián tiếp chứ không phải là vết lúa gạo (thậm chí cũng rất hiếm trong thời đại kim khí sớm). Đó là đồ gốm, cuốc đá, dao cắt, bàn đập vỏ cây, dọi xe chỉ, đá buộc gậy chọc lỗ…
 
Trên cơ sở tài liệu khảo cổ học ở Thái Lan và Việt Nam, trong tình trạng nghiên cứu hiện nay đại bộ phận các nhà nghiên cứu chấp nhận giả thiết của Ho Ping-ti[16] và của nhiều người khác cho rằng: Đông Á gió mùa, cụ thể là Trung Hoa từ phía nam sông Dương Tử và Đông Nam Á Lục địa và Hải đảo một khu vực quanh năm khí hậu ấm nóng và rất giàu nguồn thực vật. Đông Nam Á gió mùa này từ gốc thu lượm thực vật có thể là nơi phát nguồn của nghề làm vườn trồng cây ăn quả, củ…[17] và vào giai đoạn cuối hệ sinh thái nông nghiệp đã bắt đầu đa dạng, loại hình nông cụ cũng được phân hóa theo chức năng, và đồ gốm nặn bằng tay càng đa dạng hoá hơn nữa, với đáy tròn, đáy nhọn hay là đáy phẳng cùng với nhiều kiểu miệng khác nhau.

II.2.1.3. Nông nghiệp trồng lúa:
II.2.1.3.1. Thái Lan:
 
Trước hết cần phải chú ý đến sự kiện là: Cho đến nay chưa có một địa điểm nông nghiệp nào có niên đại tương đương với những địa điểm ở lưu vực sông Hoàng Hà và Dương Tử được tìm thấy ở Đông Nam Á nhiệt đới ẩm. Cũng như không có bất cứ chứng cứ nào về sự dao động khí hậu tương tự xảy ra ở khu vực nhiệt đới này[18].

Ở Thái Lan chứng cứ sớm nhất về thuần hoá lúa được phát hiện ở Khok Phanom Di gần vịnh Thái Lan.
alt
Lúa ở Noen u-Loke Thái Lan (thời đại Sắt Sớm)
 
Gạo được cất giữ trong các vựa ở địa điểm Khok Phanom Di, vỏ trấu đã được tìm thấy ở những lớp cư trú. Ngoài ra, vết tích lúa gạo còn thấy trong đồ gốm, ít nhất là ở khu vực A,B. Trấu còn được sử dụng để làm chất phụ gia trong đất làm đồ gốm.

Trước đây, người ta chưa thể xác định một cách rõ ràng đây là lúa hoang hay lúa trồng, có thể cả hai
[19].
Theo những phân tích hiện nay, đây là loại đã được trồng
[20]. Địa điểm này được cư trú trong khoảng thời gian 500 năm, khởi đầu từ 3500 năm cách ngày nay.

Một số học giả cho rằng Khok Phanom Di cùng với một số địa điểm khác nữa là bằng chứng cho sự xâm nhập của cư dân trồng lúa từ sông Dương Tử vào Đông Nam Á nhiệt đới.
Tuy vậy, những phân tích khảo cổ học của giai đoạn cư trú khởi đầu ở địa điểm Nong Nor, một địa điểm được coi là tiền thân của Khoh Phanom Di với những tổ hợp hiện vật giống Khoh Phanom Di, chứng tỏ sự phát triển liên tục về văn hoá trong vùng lại đưa đến kết luận rằng những ý kiến trên chưa hẳn đã đúng, việc sử dụng khai thác lúa có thể có nguồn gốc bản địa và không nhất thiết phải là kết quả của sự xâm nhập trực tiếp của cư dân từ bên ngoài vào
[21].

Vết tích lúa gạo đã tìm thấy ở Ban Chiang, Ban Na Di, Non Nok Tha… ở Ban Na Di và Non Nok Tha, vết tích của lúa đã thấy trong muôi nấu đồng và khuôn đất nung như kiểu chất phụ gia.
II.2.1.3.2. Việt Nam:
 
II.2.1.3.2.1. Tư liệu cổ thực vật:
Bên cạnh những vết tích này, trong một số địa điểm văn hoá tiền sơ sử như trong văn hoá Sa Huỳnh cũng thấy thông báo về việc tìm thấy dấu vết lúa gạo, nhưng không có số liệu cụ thể[22].
alt
Dấu v
 trấu trên mảnh chum gốm văn hóa Sa Huỳnh
(Hiện vật của Bảo tàng Nhân học, Trường ĐHKHXH & NV, ĐHQG Hà Nội)

Trong số những phát hiện này, phát hiện quan trọng nhất là những hạt gạo cháy ở địa điểm Đồng Đậu.
Địa điểm Đồng Đậu đã được khai quật trong ba mùa vào những năm 1965-1966; 1969 và 1984. Tầng văn hoá dày từ 2,6 đến 3,20m với một số hố đất đen đào vào sinh thổ
[23].

Khai quật năm 1966: Theo những người phụ trách khai quật, ở độ sâu 4m, lớp 4 (niên đại C14 3.300+/-100 BP), thuộc văn hoá Phùng Nguyên
[24], tại khu vực “bếp” 11, hố 2 ở độ sâu khoảng 4,9m tính từ bề mặt xuống đã phát hiện được nhiều vỏ trấu[25].
Tuy vậy, khó mà có thể nối giữa những vỏ trấu này với niên đại C14 của lớp Phùng Nguyên. Trong những báo cáo sau này có một niên đại C14 nữa 3050+/-80 BP và một số lượng lớn than và gạo cháy được tìm thấy ở độ sâu 3,4m.
Theo những người khai quật, mẫu được lấy từ lớp thuộc giai đoạn muộn của văn hoá Phùng Nguyên
[26].
Như vậy, địa tầng ở đây khá phức tạp và như vậy, chúng ta chưa có những chứng cứ đáng tin cậy về vết tích lúa gạo từ giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên.
Những phân tích mẫu lúa gạo khai quật năm 1966 của Nguyễn Xuân Hiển
[27], cho thấy 91% trong tổng số mẫu có dạng tròn, 8% có dạng bầu và 1% có dạng dài. Xét về hình dạng, những hạt lúa Đồng Đậu giống hạt “Nếp Cái”, một loại lúa nếp được trồng rất nhiều (chiếm tới 80%) trong khu vực. Những hạt lúa Đồng Đậu là loại đã được thuần dưỡng (ảnh).
alt alt
Gạo cháy và lùa ở Đồng Đậu (Nguyễn Xuân Hiển 1998)

Mẫu lấy từ khai quật năm 1984 đã được Đào Thế Tuấn phân tích[28], cho kết quả như sau:
Mẫu lấy từ lớp văn hoá Đồng Đậu (tức lớp II từ 1,8 đến 1,4m ở hố II): 10 hạt dạng dài của loại lúa không phải là lúa nếp, một số hạt có dạng bầu dục dài kiểu lúa nếp nương.
Ở độ sâu từ 1,2 đến 1,5m (tức văn hoá Đồng Đậu muộn): dạng thuôn ngắn của loại không phải là lúa nếp, dạng tròn dài của lúa nếp và tròn ngắn của không phải lúa nếp.
Ở độ sâu từ 1,2-1,0m (tức Đồng Đậu muộn và Gò Mun sớm): dạng thuôn ngắn và thuôn dài của loại không phải là lúa nếp, và 02 hạt có dạng bầu dục ngắn và tròn dài của loại lúa nếp.

Qua phân tích những hạt gạo địa điểm Đồng Đậu và ở một số địa điểm khác, Nguyễn Xuân Hiển cho rằng lúa sớm thuần dưỡng ở Việt Nam thuộc dạng hạt tròn và bầu; sau đó chuyển thành dạng thuôn và dài. Xu hướng này diễn ra ở cả hai miền Bắc và Nam và khác hẳn với những vùng trồng lúa láng giềng khác ở Đông Nam Á
[29].

Như vậy, trên thực tế chúng ta không có nhiều phân tích về lúa trồng giai đoạn sớm ở Việt Nam.

Tuy vậy, trong hầu như tất cả các nghiên cứu về văn hoá Phùng Nguyên hay các văn hoá Tiền Đông Sơn ở châu thổ Bắc Bộ, các nhà nghiên cứu đều thống nhất ý kiến về sự phát triển và vai trò quan trọng của nghề trồng củ, làm vườn và trồng lúa trong giai đoạn văn hoá này
[30].

Cũng cần lưu ý rằng, vết tích trực tiếp về lúa gạo trong các địa điểm văn hoá Phùng Nguyên sớm hầu như chưa thấy, dù những năm gần đây, việc thu thập toàn bộ tư liệu khai quật đã được chú trọng bằng cách rây khô hay rây nước.

Trong một nghiên cứu mới đây về thực vật ở châu thổ Bắc bộ (qua phân tích mẫu bào tử phấn hoa từ các địa điểm thời đại kim khí như Đại Trạch, Đình Tràng, Thành Dền, Đồng Đậu, Đồng Vông, Bãi Mèn) tác giả Nguyễn Mai Hương đi tới kết luận ban đầu rằng, mật độ tập trung cao của Poacene với kích thước hạt lớn trong một số mẫu có nhiều khả năng liên quan tới trồng lúa và những hoạt động nông nghiệp
[31].
alt
Gạo cháy ở địa điểm Gò Cấm, Quảng Nam (thế kỷ 1,2 SCN)
(Hiện vật của Bảo tàng Nhân học)

II.2.1.3.2.2. Tư liệu khảo cổ học:

Như trên đã đề cập, nhiều học giả tin rằng, những chứng cứ gián tiếp về hoạt động nông nghiệp đã xuất hiện trong bối cảnh văn hoá Hoà Bình giai đoạn cuối. Những công cụ mài lưỡi được gắn với những công cụ dùng để chặt cây phá rừng lấy đất trồng trọt.
Tuy vậy, cũng có những ý kiến phản bác điều này và cho rằng bộ công cụ đá của Văn hoá Hoà Bình không liên quan đến hoạt động trồng trọt dù ở mức sơ khai nhất.

Trong văn hoá Phùng Nguyên, những công cụ đá có kích thước nhỏ thường được gắn với nghề chế tác đồ gỗ, tuy vậy cũng đã có không ít những phát hiện về liềm đá dùng trong gặt hái (ví dụ ở Gò Bông), những công cụ đá có kích thước lớn thường được gắn với hoạt động phá rừng, chặt cây lấy đất trồng trọt.
Theo một số nhà nghiên cứu, phương pháp trồng ngũ cốc giai đoạn này còn rất thô sơ và có nhiều khả năng nông cụ chính là cây gậy chọc lỗ tra hạt bằng gỗ.

Trong Văn hoá Hoa Lộc những hiện vật liên quan đến nghề trồng trọt như cuốc đá, vòng gia trọng đá và dao đá được tìm thấy với số lượng lớn. Văn hoá Hoa Lộc phân bố ở vùng duyên hải ven biển, vị thế địa lý này xem ra ủng hộ giả thuyết rằng trồng lúa có nguồn gốc từ những vùng lầy hồ đầm ven biển
[32].

Trên thực tế, những vết tích lúa trồng sớm nhất ở Đông Nam Á được thu thập từ các địa điểm duyên hải như Khok Phanom Di (Thái Lan); Bái Cù, Bái Man (miền Bắc Việt Nam) hay ở nhữmg địa điểm châu thổ sông như An Sơn, Rạch Núi, Rạch Rừng (miền Nam Việt Nam).
Việc sản xuất và sử dụng những đồ gốm có kích thước lớn trong Sơ kỳ thời đại Kim khí  cũng được diễn giải như chứng cứ về gặt hái và giữ hạt ngũ cốc.

Có nhiều khả năng, việc sử dụng những nông cụ bằng gỗ cũng như đồ đựng ngũ cốc bằng nan đan đã phổ biến trong thời kỳ kim khí. Tại địa điểm Thành Dền (Vĩnh Phúc), miền Bắc Việt Nam, trong đợt khai quật năm 1983 đã phát hiện một tấm phên cháy có lẽ dùng để phơi hay trữ hạt ngũ cốc. Loại phên đan tương tự vẫn được cư dân đương thời sản xuất và sử dụng.

alt
Lưỡi cày đồng phát hiện ở Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội,
(Hiện vật Bảo tàng Lịch sử Việt Nam)

Những nghiên cứu khảo cổ, nhất là ở khu vực miền Bắc Việt Nam đã cho thấy từ khoảng Trung kỳ Thời đại Đồ Đồng, nông cụ tăng lên một cách rõ rệt về cả số lượng và chất lượng và đến thời Văn hoá Đông Sơn việc dùng cày, trồng lúa hai vụ được minh chứng qua cả nguồn tài liệu vật thật và cả thư tịch cổ.

II.2.1.3.2.3. Tư liệu ngôn ngữ học và văn hoá dân gian:

Đông Nam Á là quê hương của nhiều nhóm tộc người, Đông Nam Á được xem là nơi khởi nguồn của nhiều ngữ hệ lớn có lịch sử lâu đời gắn với vùng khởi nguyên của nông nghiệp
[33].
Bellwood cũng cho rằng ngữ hệ Nam Đảo, Thai-Kadai, Hmong-Mien và Nam Á được hình thành dưới kết quả của sự lan toả cư dân từ vùng á nhiệt đới Nam Trung Quốc và miền Bắc Đông Nam Á Lục địa, tức là vùng đất nằm giữa sông Dương Tử và Đông Bắc Thái Lan/Đông Dương, nơi mà việc thuần hoá cây lúa gạo và một số cây lương thực khác diễn ra một cách sâu rộng từ 6000 năm đến 3000 năm BC.

Theo Phạm Đức Dương (1974) đã có một hệ thống ngôn ngữ chung cho Đông Nam Á thời cổ và sau đó được phân hoá thành ba dòng:
Austroasiatic (Nam Á)
Tay-Thai
Austronesian (Nam Đảo).
Hiện tại giữa các nhà khoa học đã có không ít ý kiến về mối quan hệ giữa Tày Thái và Việt. Ý kiến chung cho rằng tiếng Việt-Mường có cơ tầng Mon-Khmer và cơ chế Tày Thái.

Dựa trên khối tư liệu phong phú về ngôn ngữ, Phạm Đức Dương cũng nhận thấy trong từ vựng Việt Mường có cả một hệ từ có nguồn gốc Tày Thái phản ánh mô hình kinh tế-chính trị trong hai mảng chính: tổ chức sản xuất lúa gạo – hạ tầng cơ sở và cơ cấu chính trị – thượng tầng kiến trúc
[34].
Cư dân Tày-Thái sinh sống ở vùng đất thấp và thung lũng của sông Yallow (Hoàng Hà) và Dương Tử có một nền kinh tế phát triển dựa trên cơ sở trồng lúa nước
[35].

Đặc trưng của nền nông nghiệp này là hệ thống thuỷ lợi mương phai và lái “độc nhất vô nhị “. Người ta tin rằng hệ thống này được cư dân Tày-Thái sử dụng trong trồng lúa nếp ở miền Nam Thái Lan và miền Bắc Thái Lan
[36].

Sử dụng tổng hợp tư liệu khảo cổ, cổ thực vật tìm thấy ở hang Banyan, Non Nok Tha (Thái Lan) và Xóm Trại (Việt Nam), Đào Thế Tuấn và Trần Quốc Vượng đã phác dựng lại quá trình trồng lúa ở Đông Nam Á Lục địa:
Vào khoảng 6000 năm trước đây, ở miền Bắc Việt Nam, giai đoạn Hậu kỳ Đá mới, những cư dân Tày-Thái sớm trong khu vực đã thuần hoá lúa dại, loại lúa tẻ hạt dài gần giống loại lúa hoang ở thung lũng người Thái đen (Điện Biên Phủ). Loại lúa này từng mọc ở thung lũng chân núi Tày-Thái.

Cách đây khoảng 4000 năm, trong thời đại đồ đồng, loại lúa tẻ sớm đã phân hoá thành những giống sau:
- Lúa nếp hạt thuôn vừa phải ở chân ruộng thấp.
- Lúa nếp hạt thuôn ở chân ruộng cao (đồi).
- Lúa hạt tròn, tựa lúa sino-japonica ở các nước phương bắc (Trung Hoa, Nhật Bản)

Như đã nêu ở trên, niên đại 6.000 năm không phù hợp với những chứng cứ khảo cổ học (ít nhất theo tư liệu hiện nay).
Chứng cứ trực tiếp sớm nhất về lúa trồng ở Đông Nam Á hiện nay có niên đại khoảng trên 4.000 năm cách ngày nay.

Những chứng cứ về trồng trọt sớm và trồng lúa trong văn hoá Hoà Bình (như kiểu văn hoá thung lũng) cũng chưa được chứng minh về khảo cổ học. Song giả thiết trên cho thấy sự tiến hoá nội tại về trồng lúa ở miền Bắc Việt Nam và quá trình hội nhập giữa những ngữ hệ và nhóm tộc người ở Việt Nam.


Higham trong vô số bài viết của mình (1989, 1995, 1996, 2001…) dựa trên sự kết hợp giữa tài liệu ngôn ngữ và khảo cổ học đã đề xuất về sự thâm nhập của những cư dân trồng lúa từ lưu vực sông Dương Tử vào Thái Lan và Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 1500 trước Công nguyên.
Nói cách khác, theo ông trồng lúa ở Đông Nam Á Lục địa có nguồn gốc ở lưu vực sông Dương Tử và là kết quả của những đợt di chuyển của dân cư.

Cũng theo tư liệu khảo cổ, trồng lúa ở Đông Nam Á Lục địa có trước nghề trồng lúa ở Đông Nam Á Hải đảo
[37]. Bellwood cho rằng, sự xuất hiện của lúa được coi là kết quả của sự xâm nhập của cư dân Nam Đảo từ Nam Trung Hoa qua Đài Loan vào Hải đảo vào khoảng năm 2500-2000 trước Công nguyên[38].

Bellwood đã xác định ba giai đoạn phát triển trong sản xuất lương thực của cư dân Nam Đảo theo tuyến đường Nam Trung Hoa – Đài Loan – Đông Nam Á Hải đảo:
a. Giai đoạn 1 Miền Nam Trung Hoa: Là thời kỳ sớm của ưu thế trồng hạt.
b. Giai đoạn 2 sau năm 2000 trước công nguyên: Dịch chuyển về xích đạo và tăng cường trồng củ và các loại cây trồng thích ứng tốt hơn với điều kiện sinh thái nhiệt đới ẩm.
c. Giai đoạn 3 sau năm 1500 trước công nguyên: Đã diễn ra một sự chuyển dịch từ hệ thống sản xuất lương thực tới những vùng chưa có người ở đại dương- Thái Bình Dương (giai đoạn đá mới muộn Lapita).

Mặt khác Higham lại cho rằng không có những chứng cứ về trồng lúa ở thời gian trên ở Đài Loan tại các địa điểm thuộc văn hoá Dapenkeng[39].
Soilhem cũng theo học thuyết truyền bá song ông cho rằng cư dân Nam Đảo đã chuyển dịch theo dọc bờ biển phía đông của Đông Nam Á Lục địa ra Đông Nam Á Hải đảo
[40].
alt 
Lúa ở Gua Sireh, Malaysia (4.500 BP)

Chúng ta không thể bỏ qua vai trò của di chuyển dân cư, nhưng chỉ dùng thuyết truyền bá để giải thích sự hình thành và phát triển của trồng lúa nước cũng như một số ngành nghề thủ công khác ở Đông Nam Á nhiệt đới, ví dụ như nghề dệt[41] thì quá đơn giản mà không phải lúc nào tư liệu khảo cổ học cũng khớp với tư liệu ngôn ngữ.

Quá trình chuyển đổi từ kinh tế hái lượm sang trồng trọt không phải sự kiện nhất thời và đơn lẻ, sự chuyển đổi dần dần và đa chiều này lại liên quan chặt chẽ tới nguồn gốc độc lập của những giống cây trồng khác nhau ở những khu vực khác nhau và những cơ cấu xã hội-văn hóa-kinh tế tương ứng.
Những nghiên cứu mới hiện nay cho thấy có sự đa dạng rất lớn về văn hoá và xã hội trong quá trình quá độ này, nhất là không thể coi nhẹ vai trò của cơ cấu môi trường của những xã hội nông nghiệp đầu tiên cũng như tác động của sự thay đổi môi trường đến sự phát triển văn hoá nơi mà trồng trọt lần đầu xuất hiện.
Trồng lúa nước là hiện tượng văn hoá đặc biệt, là kết quả của hoạt động sống quan trọng chỉ khi mà xã hội có nhu cầu gieo trồng.
Trong tình hình nghiên cứu hiện nay chúng ta không thể giải quyết vấn đề một cách tổng thể.
Một mặt, nhiều câu hỏi nảy sinh khi chấp nhận lý thuyết coi sự xâm nhập của những nhóm di dân như là nguyên nhân chính xuất hiện trồng lúa nước ở Đông Nam Á nhiệt đới. Ví dụ như câu hỏi về những tương đồng giữa các tổ hợp nông cụ, cách thức trữ lương thực, cấu trúc nhà ở; câu hỏi về cách thức di chuyển của dân cư; về các giống lúa và tác động xã hội của lúa như sinh kế trong cách sống của cư dân; tác động kinh tế và văn hoá của những cư dân săn bắt và hái lượm bản địa…
Mặt khác những tư liệu thu tập được từ Nong Nor hay Lưu vực sông Vàm Cỏ lại cho thấy việc khai thác lúa gạo ở quy mô lớn có thể có nguồn gốc bản địa và không nhất thiết phải qua sự xâm nhập trực tiếp của cư dân từ phía ngoài vào như trên đã trình bày.
Có nhiều tư liệu để cho rằng trồng lúa ở Đông Nam Á nhiệt đới tiến hóa theo cách thức riêng của mình và phản ánh những nhu cầu và đòi hỏi nội tại của cấu trúc xã hội và điều kiện môi trường.
Nguồn gốc thuần hoá cây lúa có lẽ có những mô thức riêng ở từng khu vực. Giống như sự đa dạng lớn mà ta thấy ở văn hoá Đông Nam Á, trồng lúa ở đây cũng cho thấy sự đa dạng tương tự.
Để giải thích sự đa dạng này chúng ta không thể chỉ dùng nguyên nhân di dân. Dù động cơ nào chăng nữa thì trồng lúa ở Đông Nam Á xuất phát từ chính nhu cầu nội tại của mỗi xã hội, mỗi cộng đồng, cư dân của mỗi cộng đồng sẽ chọn lựa cách kiếm sống thích ứng với sự thay đổi của môi trường tự nhiên và điều kiện sinh thái dẫn tới những biến đổi cơ cấu xã hội tương tự.

Ngay trong thời cổ đại, những mối quan hệ giữa các khu vực là đa chiều, đa phương và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Trong lịch sử đã có không ít ví dụ về sự nhập khẩu giống lúa từ Việt Nam sang Trung Hoa
[42], từ sau thế kỷ 11, lúa Chămpa từ miền Trung Việt Nam đã được đưa tới duyên hải nam Trung Hoa[43]. Kỹ thuật trồng lúa hai vụ được biết ở Trung Hoa từ thế kỷ 12 có thể cũng đã được nhập từ Việt Nam, nơi mà kỹ thuật này đã phổ biến vào thế kỷ 3 trước Công nguyên[44].
Như nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định, nông nghiệp Đông Nam Á và nông nghiệp Việt Nam ngay từ giai đoạn ban đầu đã là nông nghiệp đa canh.

Đối với phần lớn các học giả nghiên cứu về khu vực dù chấp nhận hay không chấp nhận quan điểm rằng thuần dưỡng lúa nước bắt đầu trước hết ở miền Nam Trung Hoa, điều quan trọng nhất vẫn là:
“Quan điểm trên chỉ chứng tỏ rằng quá trình thuần hoá cây lúa diễn ra ở miền Nam Trung Hoa nhanh hơn ở những vùng khác… Nó không có nghĩa rằng toàn bộ phức thể trồng lúa đều có nguồn gốc ở Trung Hoa rồi từ đó lan toả đi những vùng xa khác. Quá trình thuần hoá lúa dại diễn ra khá riêng biệt ở từng vùng và độc lập so với những vùng phía bắc”
[45].
Tài liệu sử dụng
Tiếng Việt :
- Chử Văn Tần: Vấn đề nông nghiệp sớm ở Việt Nam và Đông Nam Á, KCH, số 3, 1998, tr.29-41.
- Hà Văn Tấn: Theo dấu các văn hoá cổ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997.
- Hà Văn Tấn (chủ biên): Khảo cổ học Việt Nam, Tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998.
- Lâm Mỹ Dung, Nguyễn Chiều và TT: Phát hiện thêm cụm mộ chum tại Gò Miếu Ông, NPHM về KCH năm 2003, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004, tr.241-243.
- Đoàn khai quật Lai Nghi 2002, 2003: Khai quật khu mộ táng Lai Nghi lần thứ nhất và thứ hai, NPHM về KCH năm 2003, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004, tr.239-242.
- Hán Văn Khẩn: Văn hoá Phùng Nguyên, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Jean-Marie Pelt, Marcel Mazoyer, Theodore Monod, Jacques Girardon: Câu chuyện hay nhất về loài cây, Nxb Thế Giới, Hà Nội, 2005.
*********
Tiếng Anh:
- Bellwood, P: Prehistory of the Indo-Malaysian Archipelago, Academic Press, New York, 1985.
- Bellwood, P: Austronesian Prehistory in Sotheast Asia: Homeland, Expansion and Transformation, Html, 1995.
- Bellwood, P: Ancient seafarers. Archaeology, Volume 50, Number 2 March/April 1997. Html.
- Bellwood, P, Gillespie.R, Thompson.G, Vogel: New Dates for Prehistoric Asian Rice, Asian Perspectives, 31(2), Fall 1992, tr.161-168.
- Bryan Gordon: February 1999 preliminary report on the study of the rise of Chinese Civilization based on paddy rice cultivation. Html, 1999.
- Bui Phat Diem, Vuong Thu Hong and Nishimura Masanari: Research Achievements of the Archaeology before “Oc Eo culture” in the Lower Vam Co River Basin, Southern Part of Vietnam, Journal of Southeast Asia Archaeology, No.2, 1997.
- Cameron Judith: The movement of textile technology from Southeast China into Southeast Asia during the prehistoric period, Bài tham dự Hội nghị Tiền Sử Châu Á – Thái Bình Dương tháng 4 năm 2006, Manila, Philippines.
- Chang Kwang-chih: The Archaeology of Ancient China (Fourth edition Revised and Enlarged), Yale University Press, New Haven and London, 1986.
- Chang Te Tzu: Rice – In the Cambridge World History of Food, Html, 2001.
Chihiro, Yako Miyamori: Plant remains in potsherds at Lang Vac site, Nghe An province, The paper, presented at International Conference “One century of Vietnamese Archaeolgy”, December 2001, Hanoi.
Dao The Tuan: Some remarks on rice specimens excavated at Xom Trai cave in 1982, Paper read on the Conference on the Hoabinhian, Hanoi, 1982.
- Dougald O’Reilly: An Archaeological analysis of the Initial Occupation Phase at Nong Nor, Thailand, In The Origins of Angkor- Archaeological Project web site, Html, 2001.
- Falvey, J.L: Suistainable Technologies in Thai Agriculture, The Australian Academy of Technological Sciences and Engineering Focus, No.115, Jan/Feb 2001, Html.
- Glover, J: The Late Prehistoric Period in Indonesia. In Smith, R.B., Watson,W., (editors), Early Southeast Asia:essays in Archaeology, History and Historical Geography, p.167-184, Oxford University Press, Oxford, 1979.
- Gorman, C.F. The Hoabinhian and after: subsistence patterns in Southeast Asia during the late Pleistocene and early Recent period. World Archaeology 2(3), 1971: 300-320.
- Higham, C.F.W: The Archaeology of Mainland Southeast Asia, Cambridge University Press, Cambridge, 1989.
- Higham, C.F.W: The transition to rice cultivation in Southeast Asia, In Price, T.D., and Gebauer, A.B., (editors), Last Hunters-First Farmers: New Perspectives on the Prehistoric Transition to Agriculture, p.127-155, American School of Prehistoric Research, Santa Fe, 1995.
- Higham, C.F.W: The Bronze Age of Southeast Asia, The Cambridge University Press, Cambridge, 1996.
- Higham, C.F.W: Early cultures of Mainland Southeast Asia. River Books, Bangkok, Thái Lan, 2002.
Ho Ping-ti: The Craddle of the East, Hongkong and Chicago, The Chines University of Hongkong and the University of Chicago, 1975.
- Nguyen Xuan Hien: Rice remains from various archaeological sites in North and South Vietnam, In - Klokke.M.J., and Thomas De Bruijn (editors), Southeast Asian Archaeology 1996, Proceedings of the 6th International Conference of the European Association of Southeast Asian Archaeologists, Leiden 2-6 September 1996, Hull, 1998.
- Solheim, W.G.II: Philippines: Further notes on the Kalanay pottery complex in the P.I, 1980.
- Solheim, W.G.II: The development of metallurgy in Southeast Asia: another reply to Loofs-Wissowa, Journal of Southeast Asian Studies, XIV (1), 1983, p.18-25.
- Solheim, W.G.II: Taiwan, Coastal South China and Northern Vietnam and the Nusantao maritime trading network, JEAA 2, 1-2, Brill, Leiden, Html, 2000.
- Spencer, J.E: The migration of rice from Mainland Southeast Asia into Indonesia, In Barrau, J, (editor), Plants and the migration of Pacific Peoples, p.83-89, Honolulu, 1963.
- Xu, Wang sheng, 1998. The origin of the Chinese plough in rice paddy cultivation. In Agricultural Archaeology, No.1. Html.
- Tran Quoc Vuong: The Tay-Thai contribution to the rormation and development of Vietnamese culture, In Tran Quoc Vuong, Some Aspects of Traditional Vietnamese Culture, Hanoi, 1994, Exclusive to Tran Quoc Vuong’s Family.
- Wang, Xiangkun et al, Research on the origin of Chinese cultivated rice: Present situation and forecast, In Research on the origin of Chinese cultivated rice project, Html, 2001.
- Wen-ming Yan: Origins of Agriculture and Animal Husbandry in China, In Aikens, C.M., and Song Nai Rhee (editors), Pacific Northeast Asia in Prehistory: Hunter-Fisher-Gatherers, Farmers and Socio-Political Elites, WSU Press, 1992.
- Yen, D.E: Hoabinhian horticulture? The evidence and the questions from northwest Thailand, In Allen,J., Golson, J., and Jones, R., Sunda and Sahul, p.567-599, London, 1977.
Nguyen Thi Mai Huong: The vegetation history of the Bac Bo Plain during the Metal period in Vietnam, Bài tham dự Hội nghị Tiền Sử Châu Á-Thái Bình Dương tháng 4 năm 2006, Manila, Philippines.
 
Chú thích[1] Jean-Marie Pelt, Marcel Mazoyer, Theodore Monod, Jacques Girardon: Câu chuyện hay nhất về loài cây, Nxb Thế Giới, Hà Nội, 2005, tr.132.[2] Chang Te Tzu: Rice – In the Cambridge World History of Food, Html, 2001, tr.4.[3] Xu, Wang sheng, 1998. The origin of the Chinese plough in rice paddy cultivation. In Agricultural Archaeology, No.1. Html.[4] Yasuda, Y., 2001. The Yangtze River Civilization Program. Html. tr.2.[5] Wang, Xiangkun et al, Research on the origin of Chinese cultivated rice: Present situation and forecast, In Research on the origin of Chinese cultivated rice project, Html, 2001; Xu Wangsheng, The origin of the Chinese plough in rice paddy cultivation. In Agricultural Archaeology, No.1. Html 1998.; Bryan Gordon: February 1999 preliminary report on the study of the rise of Chinese Civilization based on paddy rice cultivation. Html, 1999…[6] Wen-ming Yan: Origins of Agriculture and Animal Husbandry in China, In Aikens, C.M., and Song Nai Rhee (editors), Pacific Northeast Asia in Prehistory: Hunter-Fisher-Gatherers, Farmers and Socio-Political Elites, WSU Press, 1992, tr.120; bảng.2.[7] Wen-ming Yan: Origins of Agriculture and Animal Husbandry in China, In Aikens, C.M., and Song Nai Rhee (editors), Pacific Northeast Asia in Prehistory: Hunter-Fisher-Gatherers, Farmers and Socio-Political Elites, WSU Press, 1992. tr.21.[8] Wen-ming Yan: Origins of Agriculture and Animal Husbandry in China, In Aikens, C.M., and Song Nai Rhee (editors), Pacific Northeast Asia in Prehistory: Hunter-Fisher-Gatherers, Farmers and Socio-Political Elites, WSU Press, 1992, tr.121.[9] Alexander và Coursey, 1969, dẫn theo Chang Te Tzu: Rice – In the Cambridge World History of Food, Html, 2001.[10] Chang Te Tzu: Rice – In the Cambridge World History of Food, Html, 2001, tr.5.[11] Gorman, C.F. The Hoabinhian and after: subsistence patterns in Southeast Asia during the late Pleistocene and early Recent period. World Archaeology 2(3), 1971, tr. 305.[12] Dẫn theo Ho Ping-ti: The Craddle of the East, Hongkong and Chicago, The Chines University of Hongkong and the University of Chicago, 1975, tr.371-372.[13] Ý kiến của Jack R. Harlan, trích theo Ho Ping-ti: The Craddle of the East, Hongkong and Chicago, The Chines University of Hongkong and the University of Chicago, 1975, tr.372.[14] Higham, C.F.W: The transition to rice cultivation in Southeast Asia, In Price, T.D., and Gebauer, A.B., (editors), Last Hunters-First Farmers: New Perspectives on the Prehistoric Transition to Agriculture, p.127-155, American School of Prehistoric Research, Santa Fe, 1995.[15] Ho Ping-ti: The Craddle of the East, Hongkong and Chicago, The Chines University of Hongkong and the University of Chicago, 1975, 1975, tr.374.[16] Ho Ping-ti: The Craddle of the East, Hongkong and Chicago, The Chines University of Hongkong and the University of Chicago, 1975, tr.373.[17] Tran Quoc Vuong: The Tay-Thai contribution to the rormation and development of Vietnamese culture, In Tran Quoc Vuong, Some Aspects of Traditional Vietnamese Culture, Hanoi, 1994, tr.37; Hà Văn Tấn (chủ biên): Khảo cổ học Việt Nam, Tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1999, tr.313.[18] Higham, C.F.W: The transition to rice cultivation in Southeast Asia, In Price, T.D., and Gebauer, A.B., (editors), Last Hunters-First Farmers: New Perspectives on the Prehistoric Transition to Agriculture, p.127-155, American School of Prehistoric Research, Santa Fe, 1995, tr.138.[19] Higham, C.F.W: The Archaeology of Mainland Southeast Asia, Cambridge University Press, Cambridge, 1989.[20] Higham, C.F.W: Early cultures of Mainland Southeast Asia. River Books, Bangkok, Thái Lan, 2002.[21] Dougald O’Reilly: An Archaeological analysis of the Initial Occupation Phase at Nong Nor, Thailand, In The Origins of Angkor- Archaeological Project web site, Html, 2001.[22] Hà Văn Tấn (chủ biên): Khảo cổ học Việt Nam, Tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1999, tr.343.[23] Nguyen Xuan Hien: Rice remains from various archaeological sites in North and South Vietnam, In Klokke.M.J., and Thomas De Bruijn (editors), Southeast Asian Archaeology 1996, Proceedings of the 6th International Conference of the European Association of Southeast Asian Archaeologists, Leiden 2-6 September 1996, Hull, 1998, tr.30; Hà Văn Tấn (chủ biên): Khảo cổ học Việt Nam, Tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1999, tr.104.[24] Hà Văn Tấn (chủ biên): Khảo cổ học Việt Nam, Tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1999, tr.52.[25] Nguyen Xuan Hien: Rice remains from various archaeological sites in North and South Vietnam, In Klokke.M.J., and Thomas De Bruijn (editors), Southeast Asian Archaeology 1996, Proceedings of the 6th International Conference of the European Association of Southeast Asian Archaeologists, Leiden 2-6 September 1996, Hull, 1998, tr.30.[26] Hà Văn Tấn (chủ biên): Khảo cổ học Việt Nam, Tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1999, tr.52.[27] Nguyen Xuan Hien: Rice remains from various archaeological sites in North and South Vietnam, In Klokke.M.J., and Thomas De Bruijn (editors), Southeast Asian Archaeology 1996, Proceedings of the 6th International Conference of the European Association of Southeast Asian Archaeologists, Leiden 2-6 September 1996, Hull, 1998, tr.30-33.[28] Đào Thế Tuấn Dao The Tuan, The burnt rice grains in Dong Dau site, Vinh Phu province, 1984 excavation (in Vietnamese). Archaeology (Khao Co Hoc). No. 4. Hanoi, 1988.[29] Nguyen Xuan Hien: Rice remains from various archaeological sites in North and South Vietnam, In Klokke.M.J., and Thomas De Bruijn (editors), Southeast Asian Archaeology 1996, Proceedings of the 6th International Conference of the European Association of Southeast Asian Archaeologists, Leiden 2-6 September 1996, Hull, 1998, tr.33-34; bảng 5-12.[30] Chử Văn Tần: Vấn đề nông nghiệp sớm ở Việt Nam và Đông Nam Á, KCH, số 3, 1998, tr.29-41; Hán Văn Khẩn: Văn hoá Phùng Nguyên, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.165-168…[31] Nguyen Thi Mai Huong: The vegetation history of the Bac Bo Plain during the Metal period in Vietnam, Bài tham dự Hội nghị Tiền Sử Châu Á-Thái Bình Dương tháng 4 năm 2006, Manila, Philippines.[32] Higham, C.F.W: The transition to rice cultivation in Southeast Asia, In Price, T.D., and Gebauer, A.B., (editors), Last Hunters-First Farmers: New Perspectives on the Prehistoric Transition to Agriculture, p.127-155, American School of Prehistoric Research, Santa Fe, 1995, tr.154.[33] Bellwood, P: Austronesian Prehistory in Sotheast Asia: Homeland, Expansion and Transformation, Html, 1995.
.
[34] Tran Quoc Vuong: The Tay-Thai contribution to the rormation and development of Vietnamese culture, In Tran Quoc Vuong, Some Aspects of Traditional Vietnamese Culture, Hanoi, 1994, tr.230.[35] Kato 1998, dẫn theo Falvey, J.L: Suistainable Technologies in Thai Agriculture, The Australian Academy of Technological Sciences and Engineering Focus, No.115, Jan/Feb 2001, Html.[36] Van Beek 1995, Falvey, J.L: Suistainable Technologies in Thai Agriculture, The Australian Academy of Technological Sciences and Engineering Focus, No.115, Jan/Feb 2001, Html.[37] Chang Te Tzu: Rice – In the Cambridge World History of Food, Html, 2001, tr.5.[38] Bellwood, P: Prehistory of the Indo-Malaysian Archipelago, Academic Press, New York, 1985, tr.212.[39] Higham, C.F.W: The Bronze Age of Southeast Asia, The Cambridge University Press, Cambridge, 1996, tr.298-299.[40] Solheim, W.G.II: Taiwan, Coastal South China and Northern Vietnam and the Nusantao maritime trading network, JEAA 2, 1-2, Brill, Leiden, Html, 2000, tr.279.[41] Cameron Judith: The movement of textile technology from Southeast China into Southeast Asia during the prehistoric period, Bài tham dự Hội nghị Tiền Sử Châu Á – Thái Bình Dương tháng 4 năm 2006, Manila, Philippines, tr.42.[42] Xu Wangsheng, The origin of the Chinese plough in rice paddy cultivation. In Agricultural Archaeology, No.1. Html 1998.[43] Chang Te Tzu: Rice – In the Cambridge World History of Food, Html, 2001.[44] Falvey, J.L: Suistainable Technologies in Thai Agriculture, The Australian Academy of Technological Sciences and Engineering Focus, No.115, Jan/Feb 2001, Html.[45] Bellwood, P: Prehistory of the Indo-Malaysian Archipelago, Academic Press, New York, 1985.