Chủ Nhật, 27 tháng 1, 2013

ĐINH BỘ LĨNH- LOẠN SỨ QUÂN: TỪ SỬ LIỆU TỚI SỬ THỰC


ĐINH BỘ LĨNH- LOẠN SỨ QUÂN:
TỪ SỬ LIỆU TỚI SỬ THỰC

TS. Trần Trọng Dương
                                                         Viện Nghiên cứu Hán Nôm Email: trantrongduonghn@gmail.com


Tóm tắt:

Từ những sử liệu mới công bố, bài viết nghiên cứu về Đinh Bộ Lĩnh và loạn sứ quân ở thế kỷ X. Bước đầu có thể đưa ra những nhận định sau. Việc cát cứ ở triều nhà Ngô đã bắt đầu từ năm 951 tới năm 965 với Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư. Như vậy, Đinh Bộ Lĩnh là người cát cứ nổi dậy sớm nhất, tồn tại lâu nhất. Cục diện loạn sứ quân thực sự diễn ra với sự cướp quyền của Lã Xử Bình sau cái chết của Ngô Xương Văn năm 965. Năm 967, với hai ba chiến thắng quan trọng trước quân đội của nhà Ngô, tiêu diệt phe tiếm quyền của Lã Xử Bình, Đinh Bộ Lĩnh đã buộc các sứ quân còn lại phải quy thuận,  chấm dứt sự tồn tại của nhà Ngô và mở ra một triều đại mới- triều đại nhà Đinh.

Từ khóa: sử liệu, sử thực[1], sứ quân[2].


Đinh Bộ Lĩnh là một trong ba nhân vật lịch sử được nhắc đến nhiều nhất trong giai đoạn lịch sử Việt Nam thế kỷ X. Ngô Quyền với chiến thắng Bạch Đằng vang dội đánh tan đội quân hùng mạnh Nam Hán được coi là “ông tổ trung hưng thứ nhất” của dân tộc (chữ của Phan Bội Châu). Lê Hoàn đánh tan đại quân nhà Tống- một nhà nước đã chấm dứt giai đoạn Ngũ đại Thập quốc, thống nhất phần lớn lãnh thổ Trung Nguyên và đang trên đà trở thành một đế chế. Nếu như hai vua trên thể hiện trên lĩnh vực chống ngoại xâm thì Đinh Tiên Hoàng được coi là người đã có công trong việc dẹp yên nội loạn mười hai sứ quân. Đặc điểm chung nhất của cả ba vị là kiến quốc trên lưng ngựa[3]. Bài viết này, từ những sử liệu tái phát hiện hoặc mới lần đầu công bố, sẽ tiến hành nghiên cứu về bản chất của danh xưng “loạn mười hai sứ quân”, cũng như vai trò vị trí của Đinh Bộ Lĩnh trong cuộc động loạn của xã hội Việt Nam thế kỷ X. Những kết luận hay nhận định chúng tôi sẽ đưa ra trong bài viết phần nào cho chúng ta thấy một hình ảnh khác phong phú hơn, sinh động hơn về vị anh hùng Đinh Bộ Lĩnh so với những gì đã được biết đến lâu nay.
1. Từ biểu tượng Hoàng đế dẹp loạn
Hình ảnh Đinh Bộ Lĩnh xuất hiện trong thế kỷ X như một vị anh hùng dẹp loạn lâu nay đã trở thành một biểu tượng cho sự nhất thống quốc gia, đến mức dân gian nhiều đời cũng như chính sử lịch triều ít nhiều hư cấu nên một số tình tiết huyền thoại nhằm tô điểm thêm cho một thần điện tông miếu chính thống: Hoàng đế dẹp loạn.
Mở sách giáo khoa Lịch sử lớp bảy (2011), ta có thể thấy mục “Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước” có đoạn như sau: “Khi nhà Ngô sụp đổ, cả nước rối loạn, Đinh Bộ Lĩnh đem quân đi đánh dẹp các sứ quân. Nhờ sự ủng hộ của nhân dân, Đinh Bộ Lĩnh liên kết với sứ quân Trần Lãm, chiêu dụ được sứ quân Phạm Bạch Hổ, tiến đánh các sứ quân khác…Các sứ quân lần lượt bị đánh bại hoặc xin hàng. Tình trạng cát cứ chấm dứt”[4].
Đầu thế kỷ XX (1920), Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược ghi: “Những Sứ-quân ấy cứ đánh lẫn nhau, làm cho dân-gian khổ-sở. Sau nhờ có ông Đinh bộ Lĩnh ở Hoa-lư đem quân đi đánh, mới dẹp xong cái loạn sứ-quân, đem giang-sơn lại làm một mối,và lập nên cơ nghiệp nhà Đinh vậy”[5].
Khảo trong sử liệu cũ, hình ảnh ông vua dẹp loạn đã xuất hiện từ thế kỷ XVII trong tác phẩm Thiên Nam minh giám[6]:
Tiếc giềng Ngô máy then lỏng phép,
Cho quần hùng đầu ngảnh ghe[7] nơi.
Sứ quân bừng dấy mười hai,
Kiến ong nổi tháo[8], hươu nai tranh giành,
Tới Đinh Hoàng thoắt rành đánh tội,
Nước rừng yên, kình sói bặt hơi. (c.177-182)
            Các văn bia tại đền vua Đinh (Ninh Bình) được dựng đầu thế kỷ XVII đều ca ngợi đội quân của Đinh Bộ Lĩnh là quân chính nghĩa (nghĩa lữ), và Đinh Tiên Hoàng được coi là vị vua chính thống đầu tiên của nước Việt (chính thống chi quân tự thử)[9].
Ta thấy độ đáng tin cậy của hình tượng này được củng cố bằng những bộ sử nổi tiếng, ví như Đại Việt sử ký toàn thư chẳng hạn. Bộ sử này đã trang trọng đặt tít “KỶ NHÀ ĐINH” với nhân vật khai cơ là Tiên Hoàng Đế. Mà công lao lớn nhất để ông bước lên ngôi không gì khác ngoài việc dẹp loạn (ĐVSKTT và các bộ sử Việt Nam khác đều có hai đoạn miêu tả sự dẹp loạn này)[10]. Sách này đã trích mấy lời đánh giá của sử thần Lê Văn Hưu (1230-1322) như sau: “Tiên hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ quân phục hết…”[11] Sử thần Ngô Sĩ Liên (tk XV) bình thán như sau: “Vận trời đất, bĩ rồi ắt thái, Bắc Nam đều cùng một lẽ ấy. Thời Ngũ đại bên Bắc triều [Trung Quốc] suy loạn rồi Tống Thái Tổ nổi lên. Ở Nam triều [nước ta], 12 sứ quân phân chia quấy nhiễu, rồi Đinh Tiên Hoàng nổi lên. Không phải là ngẫu nhiên mà do vận trời vậy”[12].
Sách An Nam chí lược của Lê Trắc ghi “呉昌文卒其下作亂部領與子璉平之領交阯事號大勝王” (Ngô Xương Văn chết, bọn bề tôi làm loạn, Bộ Lĩnh cùng con là Liễn bình trị được đám ấy, lĩnh đất Giao Chỉ, xưng hiệu Đại Thắng Vương)[13].
Cục diện mười hai sứ quân ấy đã được bản đồ hóa như sau:
Bản đồ 1: Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Nguồn: http://vi.wikipedia.org
Ký hiệu: ngôi sao lớn trỏ Đinh Bộ Lĩnh (người dẹp loạn);
ngôi sao nhỏ: kinh đô Cổ Loa
      lá cờ trỏ các sứ quân nổi loạn.

2. Đến hình ảnh con người sống động qua  sử liệu
Những ghi chép về một vị hoàng đế trị loạn như trình bày ở trên, theo chúng tôi là hình ảnh/ biểu tượng đẹp cho một vị vua khai triều. Cách đánh giá của các sử quan trong Đại Việt sử ký toàn thư là cách tô điểm để một nhân vật lịch sử trở thành một biểu tượng lịch sử: “thánh triết để tiếp nối quốc thống” (chữ dùng của Lê Văn Hưu)[14] hay dẹp loạn để dựng nước. Đó chỉ là một chuyện. Điều mà chúng tôi muốn đề cập đến ở đây là một hai đoạn sử liệu vụn vặt, tách rời, bấy lâu nay vẫn nằm trong một số bộ sử quan trọng, nhưng dường như nó đã bị lãng quên một cách vô thức và mơ hồ có cả chút hữu thức nữa. Dưới đây xin trích lại.
Sử liệu 1:  Đại Việt sử ký toàn thư  (Ngoại kỷ, Quyển 5, Kỷ nhà Ngô- Hậu Ngô vương) ghi:
谿   兵璉 竿 使     使 [tr.23b-24a]“Bấy giờ người động Hoa Lư là Đinh Bộ Lĩnh cậy núi khe hiểm cố, không chịu giữ chức phận làm tôi. Hai vương muốn cất quân đi đánh; Bộ Lĩnh sợ, sai con là Liễn vào triều làm con tin để ngăn chặn việc xuất quân [24a]. Liễn đến, hai vương trách tội [Bộ Lĩnh] không đến chầu, rồi bắt giữ Liễn đem theo đi đánh. Hơn một tháng, không đánh nổi, bèn treo Liễn lên ngọn sào, sai người bảo Bộ Lĩnh, nếu không chịu hàng thì giết Liễn. Bộ Lĩnh tức giận nói: "Đại trượng phu chỉ mong lập được công danh, há lại bắt chước thói đàn bà xót con hay sao?" Liền sai hơn mười tay nỏ nhắm Liễn mà bắn. Hai vương kinh sợ: "Ta treo con nó lên là muốn để nó đoái tiếc con mà ra hàng cho chóng. Nó tàn nhẫn như thế, còn treo con nó làm gì". Bèn  không giết Liễn mà đem quân về. [T1: 207]
Sử liệu 2:  (Đại)Việt sử lược đời Trần (?) của tác giả khuyết danh:
時有華閭洞人丁部領負谿山險固不修臣職二王欲討之部領懼遣其子璉入貢璉至二王責其不庭執璉而往征之踰月不克王乃懸璉竿上謂部領曰不降即殺之部領怒曰大丈夫豈以兒子之故累大事耶遽命十餘弓射璉二王驚異乃班師焉 “Lúc bấy giờ có người ở động Hoa Lư là Đinh Bộ Lĩnh nương tựa nơi khe núi hiểm trở, kiên cố mà ở, không chịu tu sửa cho đúng cái chức vụ của bầy tôi. Hai vị vương muốn đánh, Đinh Bộ Lĩnh sợ hãi sai con là Liễn vào triều cống[15]. Liễn đến, hai vị vương chê trách sao không vào chầu, rồi bắt giữ Liễn và đem binh đi đánh Đinh Bộ Lĩnh. Đánh hơn một tháng vẫn không thắng được, vương bèn treo Liễn lên cần tre rồi bảo Bộ Lĩnh rằng: "Nếu không hàng tất giết Liễn". Đinh Bộ Lĩnh tức giận đáp rằng: "Đại trượng phu há vì đứa con nhỏ mà làm lụy đến việc lớn sao?". Rồi ra lệnh cho hơn 10 tay cung nỏ bắn Liễn. Hai vị vương kinh sợ rồi đem quân trở về.”[16]
           
Hai sử liệu[17] trên có đôi ba câu chữ xuất nhập khác nhau. Nhưng đại để có thể nhận định rằng, Đại Việt sử ký toàn thưViệt sử lược có tham chiếu lẫn nhau. Yamamoto Tatsuro tỏ ra nghi ngờ về tính xác thực của sử liệu này, nhưng ông không đưa ra được chứng cứ nào để ủng hộ cho nghi ngờ của mình[18]. Vì vậy, chúng tôi tạm coi đây như là cứ liệu có thể chấp nhận được trong tình hình tư liệu hiện nay.
Đoạn trên ghi chép về sự kiện diễn ra vào năm 951, tức năm Ngô Xương Văn lên ngôi xưng là Nam Tấn Vương và rước anh trai Ngô Xương Ngập về làm Thiên Sách Vương cùng cai trị đất nước. Đoạn trên cho ta đi đến một số nhận định như sau:
(1)   Đinh Bộ Lĩnh đã bắt đầu tiến hành cát cứ và dấy quân muộn nhất từ năm 951. Đặng Xuân Bảng chua rằng “sự kiện Bộ Lĩnh bắt đầu từ đây”[19].
(2)   Hai vua nhà Ngô không thể dẹp được loạn của Đinh Bộ Lĩnh nên đã quay về kinh đô Cổ Loa. Điều đó có nghĩa là:
(3)   Đinh Bộ Lĩnh đã cát cứ trong lãnh địa Hoa Lư từ năm 951 đến năm 965 (khi Nam Tấn Vương chết trận ở Thái Bình), tổng cộng quãng 15 năm. Và nếu tính cả thời gian từ 965 đến 967 thì tổng số thời gian cát cứ của họ Đinh đối với nhà Ngô là quãng 17-18 năm. Trong 15 năm cát cứ ấy, Định Bộ Lĩnh đã tiến hành nuôi quân và tập trận. Huyền thoại “chú bé chăn trâu tập trận cờ lau” được chép trong nhiều bộ sử có lẽ được hình thành từ cái lõi sự thật này.
(4)   Và con số 15 năm là khoảng thời gian Đinh Liễn sống cuộc đời của một con tin/ tù binh ở thành Cổ Loa. Theo Đại Việt sử ký toàn thư [tr.208], việc trốn thoát này xảy ra khi triều đình trung ương có biến, tức khi Nam Tấn Vương mất vào năm 965[20].
(5)   Trước sau 15 năm cát cứ ấy, Đinh Bộ Lĩnh cũng đã ngầm tiến hành liên kết sức mạnh và thế lực bằng việc kết thân và liên minh với Trần Lãm- một viên Thứ sử đồng liêu với cha mình dưới thời Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền[21]. Đại Việt sử ký toàn thư ghi việc nhận “con nuôi- cha nuôi” này được diễn ra vào năm 967, tức là sau khi các sứ quân đã nổi lên. Việc chép này là không logic. Có lẽ Thiên Nam ngữ lục đã ghi gần sát thực tế hơn:
Khá khen họ Trần Minh Công,
Ở ngoài Bố Hải cả dung anh tài,
Bộ Lĩnh tuổi đã hai mươi,
ngồi chẳng chỗ ngồi, ăn chẳng chỗ ăn,
Tai từ nghe tiếng đức nhân,
Có lòng đãi sĩ có ân dung người…
Trần công thấy nói biết hay,
Con dòng lỡ bước thương thay ngùi ngùi…
Bảo rằng: chú ngỡ là ai,
Xưa Đinh Công Trứ với người đã giao,
Loạn phân từ ấy cách nhau,
kẻ nhậm chư hầu người làm tá vương…
Trời xui con lại đến đây,
Nghĩa cũ một ngày muôn kiếp chẳng phai,
chú nay chửa có con trai,
Lo sau hậu tự cho ai nghiệp này” [c.3900-3950].
Đoạn ghi trên có thể cho phép nghĩ rằng, liên minh Trần- Đinh, về mặt quan hệ cá nhân, là kiểu liên minh tình cảm; về mặt chính trị có lẽ họ theo tập đoàn họ Dương, mà ở thời điểm đó đại biểu chính là Dương Tam Kha.
Một câu hỏi được đặt ra là, tại sao Trần Lãm- quan đương triều nhà Ngô lại nhận một người nổi loạn như Đinh Bộ Lĩnh làm con nuôi? Theo chúng tôi, Trần Lãm, Ngô Quyền, Đinh Công Trứ cùng hàng với nhau, đều là các trụ cột của Dương Đình Nghệ thuở trước. Và nếu theo logic, thì ba người này hẳn nằm trong số 3000 giả tử (con nuôi) của họ Dương, cùng làm nên chiến thắng trước Thứ sử Lý Tiến và đại tướng Trần Bảo của nhà Nam Hán năm  nào. Rồi sau đó, họ chung vai sát cánh cùng làm nên đại thắng Bạch Đằng. Chiến thắng lớn này, cộng thêm với việc trừ khử Kiều Công Tiễn trước đó, đã làm nên địa vị mới của Ngô Quyền để ông lên ngôi vua. Còn Trần Lãm tiếp tục làm tướng , được giao trọng trách giữ trốn hiểm yếu ở cửa biển. Tuy nhiên, trong thâm tâm ông cũng như nhiều vị tướng lĩnh khác trong số 3000 giả tử, đối tượng mà mình thờ có lẽ vẫn là họ Dương. Cho nên, Ngô Quyền mất. Dương Tam Kha đoạt lại ngôi cho nhà mình, thời đại 5 - 6 năm của Dương Tam Kha là thời của những thế lực trung thành với họ Dương. Nhưng sau đó, Tam Kha lại bị ông cháu ruột/ đồng thời là con nuôi Ngô Xương Văn (cùng các tướng Đỗ Cảnh Thạc, Dương Cát Lợi- những thuộc tướng trung thành của Ngô Quyền) lật đổ, đảo chính. Bối cảnh ấy cho phép nghĩ rằng, liên minh Trần- Đinh có lẽ được hình thành trên cơ sở phe phái và nhóm quyền lợi như vậy. Nguyễn Danh Phiệt đã hữu lý ở điểm này, ông viết: “Có lẽ, sự thật sẽ đơn giản hơn một khi thừa nhận rằng Đinh Bộ Lĩnh chỉ có thể tìm đồng minh ở một thế lực khác cùng chống đối…” [1990: 65].
Bản đồ: Bốn điểm cát cứ thời Nam Tấn Vương (951-965)
Lá cờ trỏ quân cát cứ; Sự cát cứ của Trần Lãm là chưa lộ mặt. Nhưng bên trong đã ngầm liên minh với Đinh Bộ Lĩnh. Quân cát cứ ở Thái Bình thuộc Phong Châu. Quân cát cứ ở Thao Giang (Tam Nông, Phú Thọ).
Ghi chú: tạm coi các sứ quân đã trấn giữ các đất này mà không tính đến sự thuyên chuyển bổ nhậm. Theo một số sử liệu Trung Hoa, mỗi sứ quân này trị nhậm một châu, tức là thời Ngô nước ta chia làm 12 châu. Riêng Ngô Xương Xí có điểm hơi tế nhị, từ năm 951-954, khi thân phụ ông Thiên Sách Vương còn tại vị có lẽ ông ở Cổ Loa. Sau khi cha ông mất, ông mới về Ái Châu giữ đất hương khói (954-965). Ngô Nhật Khánh- anh em họ với Ngô Xương Xí ở Đường Lâm[22] (Châu Ái).

Nguyên nhân Đinh Bộ Lĩnh dấy quân có lẽ cần được nhìn nhận từ nhiều góc độ. Về mặt tuổi tác, Đinh Bộ Lĩnh là thuộc hàng “đồng lứa”- ngang hàng với hai vua họ Ngô; ở góc độ của ông, hai vị vua này được thừa hưởng ngôi từ cha và có lẽ về mặt tài năng- hào hùng không có điều gì đáng kể để ông phải sợ phục. Về mặt tính cách và khí chất, Đinh Bộ Lĩnh vốn là một nhân cách bẩm sinh mang dòng máu anh hùng đời loạn, luôn ôm “chí lớn” để làm những “việc lớn”. Những đoạn sử trích lời nói cũng như một số hành động của ông đã chứng tỏ điều này.
Về mặt quyền lợi, một số sử Trung Hoa (xem các sử liệu tại mục 4 của bài viết này) ghi ông “nối cha giữ chức Thứ sử Hoan châu”. Keith Weller Taylor dựa vào sử liệu này mà đoán định rằng Đinh Bộ Lĩnh giữ chức Thứ sử Hoan- Ái vào thời Bình Vương Dương Tam Kha giữ ngôi [1982: 277]. Trong khi, toàn bộ sử Việt Nam đều ghi ông mồ côi cha từ bé và lớn lên trên quê mẹ. Đoạn “mồ côi và thơ ấu” trong Đại Việt sử ký toàn thư có thể thấy nằm trong phần “huyền thoại thuở ấu thơ của họ Đinh”, nên chúng tôi cho rằng, những ghi chép bên sử Bắc là đáng để lưu ý hơn, và ý kiến của Keith Weller Taylor là có cơ sở[23]. Theo cách tính của Nguyễn Danh Phiệt, Đinh Công Trứ mất khi Đinh Bộ Lĩnh quãng từ 15 đến 20 tuổi[24]. Theo chúng tôi, đây là cứ liệu cho phép nghĩ rằng Đinh Bộ Lĩnh, theo nguyên tắc tập ấm, có thể đã nối cha giữ chức một thời gian, rồi sau đó vì theo phe họ Dương nên đã bị Ngô Xương Văn truất quyền rồi về sống ở quê mẹ. Hoặc giả, ông chưa từng nhậm chức ấy đi chăng nữa, thì có thể khẳng định rằng ông đã bị tước mất quyền tập ấm. Dù có thế nào đi chăng nữa, việc mất quyền tập ấm ấy (= mất chức) chính là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến ông không phục triều đình nhà Ngô. Và chuyện ông“không chịu giữ chức phận làm tôi” như lời trong Đại Việt sử ký toàn thư và một số bộ sử đời Tống đời Minh là việc có thể hiểu được.
3. Đinh Bộ Lĩnh - từ góc nhìn của chính triều (nhà Ngô)
Những sử liệu trên cho phép nghĩ rằng Đinh Bộ Lĩnh chính là người nổi lên sớm nhất và lâu nhất trong thời đại nhà Ngô[25], đằng sau ông có thể còn có sự tiếp tay âm thầm của sứ quân Trần Lãm. Sự thực lịch sử này đã bị che khuất qua rất nhiều đời, dưới nhãn quan của các sử gia có ý định mỹ hóa lịch sử hình thành dân tộc và lịch sử hình thành đất nước. Những ghi chép, định danh rõ ràng tên họ - địa chỉ “của mười hai sứ quân” trong Đại Việt sử ký toàn thư và nhiều bộ sử khác là một minh chứng rõ nét cho xu hướng mỹ hóa lịch sử[26] này. Tạ Chí Đại Trường, có thể nói, là một trong số ít các sử gia đương đại đã phát biểu một cách chính thức về tính chất “chính- ngụy” của Đinh Bộ Lĩnh và các sứ quân[27]. Tuy nhiên, khái niệm này có điểm bất ổn, cần phải thảo luận thêm.
Từ phía nhìn của người chiến thắng lập nên triều đại (từ phía họ Đinh), các sử gia đời sau đã tiến hành ba thao tác:
(1) Loại Đinh Bộ Lĩnh/ Đinh Tiên Hoàng ra khỏi danh sách những người cát cứ.
(2) Để từ đó, miêu tả Đinh Bộ Lĩnh như một nhân vật đứng ngoài/ xuất hiện sau, “phất cờ lau chính nghĩa” để dẹp loạn, cứu vớt nhân dân khỏi lầm than.
(3) Biến các đội quân của chính triều- tức quân đội nhà Ngô (như các đạo của Ngô Xương Xí, Ngô Nhật Khánh và Đỗ Cảnh Thạc,…) trở thành các sứ quân nổi loạn.
Như vậy, một việc “trộn lẫn vàng thau” đã diễn ra trong nhãn quan của các sử gia đời sau. Người cát cứ sớm nhất, lâu nhất lại trở thành phe chính thống. Một số đội quân chính triều của nhà Ngô trở thành những người phản nghịch. Cách nhìn nhận như vậy là không công bằng và khách quan cho cả hai phía, điều đó sẽ dẫn đến những ảnh hưởng nhất định đối với sử thực Việt Nam nói riêng và sử học nói chung.
Có nghi ngờ cho rằng “mười hai sứ quân” còn là một cách làm đẹp con số của những người viết sử đời sau. Hoặc có thể nghĩ đến giả thuyết rằng, cụm danh xưng “mười hai sứ quân” đã được định hình và phổ dụng ngay đương thời, khi mà Đinh Bộ Lĩnh đã làm nên “muôn chiến thắng” và dựng nên triều đại của riêng mình. Cho nên, Tạ Chí Đại Trường nghi ngờ về con số 12 này cũng là có cơ sở. Ông cho rằng, số sứ quân có thể còn nhiều hơn thế nữa[28]. Chúng tôi chia sẻ với nhận định của ông. Sự đồng thuận này đặt trên những sử liệu và phân tích mà chúng tôi đã nêu; ngoài ra còn phải kể đến những sử liệu mới phát hiện mà chúng tôi trình bày cụ thể như dưới đây. Những sử liệu ấy cho phép nghĩ đến nguyên nhân của sự cát cứ và cục diện chính của loạn sứ quân.
4. Sử liệu và sử thực về cục diện loạn sứ quân
 Trong giai đoạn thế kỷ X, chính quyền trung ương của người Việt tuy đã được thành lập, nhưng sự cát cứ cục bộ của các thế lực hào trưởng, các dòng họ phiệt duyệt vẫn luôn xảy ra. Trong thời gian trị vì của Hậu Ngô vương, có thể đếm được ba bốn điểm cát cứ (còn được sử ghi lại), ấy chính là động Hoa Lư của Đinh Bộ Lĩnh, Thao Giang của Chu Thái[29] và đất Thái Bình[30] của hai thôn (họ) Nguyễn- Đường (nơi Nam Tấn Vương đã tử trận), còn phải kể thêm sự cát cứ ngấm ngầm của Trần Lãm ở Bố Hải khẩu. Các lợi ích nhóm dòng họ có thể là một nguyên nhân dẫn đến sự cát cứ của các sứ quân đối với nhà Ngô. Nhưng, theo chúng tôi, đó là nguyên nhân thứ yếu. Nguyên nhân trực tiếp và trước nhất là từ những sự kiện về một “nhân vật khuất lấp” trên chính trường thế kỷ X trong một số sử liệu dẫn ra sau đây.
Sử liệu 1: Ngũ Đại sử[31] (Nam Hán thế gia, Quyển 65) của Âu Dương Tu[32] (1007 - 1072) ghi:
交州吳昌文卒其佐呂處玶與峰州刺史喬知祐爭立交趾大亂驩州丁璉舉兵擊破之(Ngô Xương Văn ở Giao Châu chết, phụ tá của ông này là Lã Xử Bình cùng Phong châu Thứ sử Kiều Tri Hựu tranh lập, Giao Chỉ đại loạn, Hoan Châu Đinh Liễn cất binh đánh tan đám ấy).
Sử liệu 2: Tục tư trị thông giám trường biên [33]của Lý Đảo[34] (1115- 1184) ghi:
静海節度使吳昌文卒其叅謀吳處玶峯州刺史橋知佑武寧州刺史楊暉牙將杜景碩等争立交阯十二州大亂盗羣起始楊庭藝為静海節度使遣牙將丁公著攝驩州刺史公著死子部領繼之於是部領與其子璉同帥兵三萬人擊破處玶等境内以安遂自立為萬勝王以璉為静海節度使(Tĩnh Hải Tiết độ sứ Ngô Xương Văn chết, Tham mưu của Văn là Ngô Xử Bình, cùng Phong Châu Thứ sử Kiều Tri Hựu, Vũ Ninh châu Thứ sử Dương Huy, Nha tướng Đỗ Cảnh Thạc, bọn ấy cùng tranh lập. Mười hai châu của Giao Chỉ đại loạn, trộm cướp cùng dấy. Trước, Dương Đình Nghệ làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, sai Nha tướng Đinh Công Trứ nhiếp Hoan châu Thứ sử. Công Trứ chết, con Bộ Lĩnh nối chức ấy. Khi đó, Bộ Lĩnh cùng con là Liễn cùng thống soái ba vạn người đánh phá bọn Xử Bình, đất ấy mới yên, bèn tự lập làm Vạn Thắng Vương, lấy Liễn làm Tĩnh Hải tiết độ sứ)
Sử liệu 3: Sách Cửu triều biên niên bị yếu[35] của Trần Quân[36] đời Tống (960–1279) ghi:
乾徳初昌文死其謀呉處玶與諸將爭立攝讙州刺史丁部領與其子璉統兵三萬破處玶等自領交州境内” (Năm đầu đời Kiền Đức, Xương Văn chết, Tham mưu Ngô Xử Bình cùng các tướng tranh nhau nổi lên. Nhiếp Hoan châu Thứ sử Đinh Bộ Lĩnh và con là Liễn thỗng lĩnh ba vạn quân binh phá được bọn Xử Bình, rồi tự trị đất Giao Châu)[37]

Sử liệu 4: Sách Ngọc hải[38] (quyển 133) của Vương Ứng Lân (1223-1296)[39] đời Tống ghi:
皇朝乾徳初其部内亂有攝驩州刺史丁部領與其子璉率衆討平之部民共立部領為交州帥” (Hoàng triều ta năm đầu của niên hiệu Kiền Đức, bộ ấy nội loạn, có Nhiếp Hoan châu Thứ sử Đinh Bộ Lĩnh cùng con là Liễn đem quân đi thảo phạt bọn làm loạn. Dân bộ ấy lập Bộ Lĩnh là Giao châu soái).

Sử liệu 5: Văn hiến thông khảo[40] quyển 330 Mã Đoan Lâm[41] (1254 - 1324) ghi:
州將呉昌岌遂居其位昌岌死其弟昌文承襲宋乾德初昌文死其參謀呉處玶峰州刺史矯知武寧州刺史楊暉牙將杜景碩等爭立管内十二州大亂部民嘯聚起為宼盗攻交州先是楊廷藝以牙將丁公著攝驩州刺史兼禦蕃都督部領即其子也公著死部領繼之至是部領與其子璉率兵擊敗處玶等賊黨潰散境内安堵部民德之乃推部領為交州帥號曰大勝王 (Châu tướng Ngô Xương Ngập bèn lên ngôi, Xương Ngập chết, em là Xương Văn thừa tập. Đầu niên hiệu Kiền Đức nhà Tống, Xương Văn chết, Tham mưu của Văn là Ngô Xử Bình, Phong châu Thứ sử Kiều Tri Hộ, Vũ Ninh châu Thứ sử Dương Huy, Nha tướng Đỗ Cảnh Thạc bọn ấy tranh lập. Mười hai châu nội quản đại loạn, dân bộ ấy cũng kêu nhau tụ tập mà dấy lên làm trộm cướp đi đánh phá Giao châu. Trước, Dương Đình Nghệ lấy Nha tướng Đinh Công Trứ nhiếp Hoan châu Thứ sử, cùng nhiếp Ngự phiên Đô đốc là Bộ Lĩnh (con của Công Trứ vậy). Khi Công Trứ chết, Bộ Lĩnh nối chức ấy. Đến đây, Bộ Lĩnh cùng con là Liễn đem binh đánh bại bọn Xử Bình, tặc đảng tan vỡ, cảnh nội đều yên, dân ơn đức ấy bèn suy Bộ Lĩnh làm Giao Châu soái, hiệu là Đại Thắng Vương).
Sử liệu 6: Sách An Nam chí lược (Ngũ đại tiếm thiết: những kẻ tiếm ngôi đời Ngũ Đại) của Lê Trắc 黎崱 đời Trần soạn năm 1335 ghi:  
-(Đến khi Ngô Xương Văn chết, thì có bộ thuộc là Ngô-Bình (tức Lữ Xử Bình), giành làm vua; Đinh Bộ Lĩnh giết Ngô Bình, lãnh nước Giao Chỉ, tự xưng là Vạn Thắng Vương, lại tự ý cho con Liễn làm Tiết Độ Sứ).[42]
-宋初丁部領簒呉太祖封丁氏王爵(Đầu đời nhà Tống, Đinh Bộ Lĩnh cướp ngôi họ Ngô, Thái Tổ phong tước vương cho Đinh Thị)[43]
-昌文卒其佐吳處玶峰州刺史矯知寧州刺史楊暉牙将杜景碩等争立既而丁部領平之遂有其地 (Văn chết, Tá của Văn là Ngô Xử Bình, Thứ Sử Phong Châu Kiều Tri Hộ, Thứ-Sử Ninh-Châu Dương-Huy và bọn nha-tướng Đỗ-Cảnh- Thạc tranh lập, rồi đều bị Đinh-Bộ-Lĩnh dẹp yên, mà chiếm cứ đất ấy)[44]
Sử liệu7: Tống sử kỷ sự bản mạt[45]của Phùng Kỳ[46] (1558- 1604) quyển 2 có đoạn:
乾德初節度使呉昌文死其將呉處玶爭立驩州刺史丁部領擊敗處玶等自領交州帥號大勝王 (Đầu niên hiệu Kiền Đức, Tiết độ sứ Ngô Xương Văn chết, tướng của Văn là Ngô Xử Bình tranh lập. Hoan Châu Thứ sử Đinh Bộ Lĩnh đánh bại bọn Xử Bình, tự lĩnh làm Giao Châu Soái, hiệu là Đại Thắng Vương)
Sử liệu 8:  Sách Thập quốc xuân thu quyển 60 của Ngô Nhậm Thần[47] đời Thanh ghi:
初吴昌文卒其參佐吕處玶與峯州刺史喬知祐爭構亂丁部領率其子璉擊敗處玶” (Xưa, Ngô Xương Văn chết, Tham tá của Văn là Lã Xử Bình cùng với Thứ sử Phong Châu Kiều Tri Hựu tranh nhau gây loạn, Đinh Bộ Lĩnh dẫn con là Liễn đánh bại Xử Bình).
Sử liệu 9: Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ khắc in năm 1800 ghi:
(Xét Thập quốc thế gia Ngô Xương Văn mất ở Giao Châu, tướng tá của ông là Lã Xử Bình và Thứ sử Phong Châu là Kiều Tri Hựu tranh nhau lên thay. Giao Chỉ đại loạn, Đinh Liễn ở Giao Châu đánh tan hai người ấy, Xưởng giao cho Liễn làm Tiết độ Giao Châu…Bính Dần năm thứ 16 [966]…Bọn quan Tham mưu của Ngô vương là Ngô Xử Bình (một bản chép là Ứng Bình) Thứ sử Phong Châu là Kiều Tri Hựu, Thứ sử châu Vũ Ninh là Dương Huy, Nha tướng là Đỗ Cảnh Thạc, tranh nhau lên ngôi. Trong nước khắp nơi nổi loạn, ai nấy đều chiếm cứ quận ấp, mưu thôn tính lẫn nhau)[48].
Sử liệu10: Việt sử cương mục tiết yếu của Đặng Xuân Bảng (1828-1910) đời Nguyễn ghi:
時吴昌文參佐吕處玶與峯州刺史喬知祐爭立部與其子璉擊破之遂乘勝降范防破杜洞(杜景碩) 所至克號萬勝王(Bấy giờ, viên Tham tá của Ngô Xương Văn là Lữ Xử Bình tranh ngôi với thứ sử Phong Châu là Kiều Tri Hựu. Bộ Lĩnh cùng con là Liễn đánh phá được. Liễn thừa thắng bức hàng Phạm Phòng Át, phá Đỗ Động (Đỗ Cảnh Thạc), đi tới đâu thắng tới đó, hiệu là Vạn Thắng Vương)[49].
4.1. Lã Xử Bình- sứ quân khuất lấp
Các sử liệu trên cho thấy, “nhân vật khuất lấp” trên chính trường của loạn sứ quân mà Đại Việt sử ký toàn thư không nhắc đến chính là Lã Xử Bình. Lã Xử Bình là bộ tướng/ tham mưu/ tham tá cho Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn, được Nam Tấn Vương trọng thị đến mức ban cho quốc tính: Ngô (Xử) Bình. Khi Nam Tấn Vương chết trận tại thôn Đường- Nguyễn ở đất Thái Bình, có lẽ chính Lã Xử Bình là người tiếp quản quân đội chính quy của nhà Ngô. Nói một cách khác, với tư cách là một người tham tá thân cận, với tư cách là một tướng quân đang ở ngoài trận, Lã Xử Bình đã thâu tóm toàn bộ quyền lực quân đội chính quy về tay mình, tức là cướp quyền “điều binh khiển tướng” từ tay nhà Ngô. Theo chúng tôi, việc Lã Xử Bình tiếm quyền họ Ngô chính là nguyên nhân quan trọng nhất gây nên tình trạng cát cứ của các tướng lĩnh nhà Ngô.
Đến đây ta mới hiểu vì sao, hơn 500 con cháu họ Ngô[50] không ở kinh đô Cổ Loa mà phải chạy sang nương nhờ đại tướng Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động Giang (Thanh Oai?/ Quốc Oai?, Hà Nội ngày nay). Các bộ sử đời sau ghi chép một cách phiến diện rằng: các sứ quân tranh nhau nổi dậy khi Nam Tấn Vương chết; cách ghi như vậy vô hình chung là một sự “vơ đũa cả nắm”, biến một số sứ quân của triều Ngô thành những người gây loạn, hơn nữa là phản loạn. Từ các sử liệu đã nêu, người dấy loạn trước nhất trên cục diện chính trị nhà Ngô năm 965 chính là Lã Xử Bình. Lã Xử Bình nắm được binh quyền của quân đội chính quy nhà Ngô. Điều này gây nên sự hỗn loạn trên chính trường cũng như trong đội ngũ quân binh. Hơn 500 con cháu họ Ngô đã phải bỏ chạy khỏi Cổ Loa và nương nhờ lão tướng trung thành Đỗ Cảnh Thạc. Và có lẽ rằng, theo 500 người này còn có khá nhiều thuộc tướng cũng như binh sĩ đã trốn khỏi hàng ngũ của Lã Xử Bình mà về với phe chính thống. Cho nên, xét cán cân lực lượng lúc bấy giờ  thì Đỗ Cảnh Thạc và 500 con cháu họ Ngô mới là mạnh hơn cả. Lã Xử Bình chỉ chiếm được thành Cổ Loa và với số quân ít ỏi, đành dựa vào thành cao hào sâu mà cố thủ. Hoặc giả có dám xuất quân thì cũng chỉ là đi đánh các sứ yếu hơn như Kiều Công Hãn (Tri Hựu, Tri Hỗ, Tam Chế) ở Phong Châu như một số sử liệu đã ghi. Họ Ngô mất binh quyền và kinh đô, nhưng vẫn còn lòng dân; lúc tang gia bối rối và phân tán  lực lượng chưa thể lập vua mới, nên các “hùng trưởng mới đua nhau nổi dậy chiếm cứ quận ấp để tự giữ” (ĐVSKTT tr. 208). Việc “tự giữ” này thực chất là hành động “tự cai quản” theo chế độ nhà Ngô, chứ không thể nghe theo sự sai khiến của Lã Xử Bình. Chúng tôi cho rằng, hai chữ “tự giữ” của Đại Việt sử ký toàn thư là có lý[51]. Nhưng, trong cảnh “đục nước” ấy, hẳn nhiều vị sứ quân cũng đã lộ rõ ý đồ riêng tây, cái cảnh “không ai chịu thống thuộc vào ai” cũng là lẽ thường tình của sự thế. Chiến sự có xảy ra thì cũng là một khả năng, nhưng với tình hình sử liệu hiện tại, chúng tôi chỉ thấy khả năng chiến sự giữa Đinh Bộ Lĩnh với các lực lượng còn lại mà thôi[52].
4.2. Tự vương Ngô Xương Xí
Tiếp theo, chúng tôi muốn thảo luận thêm về người kế vị tương lai của họ Ngô trong giai đoạn này. Theo chúng tôi, người xứng đáng kế ngôi tương lai không ai khác chính là Ngô Xương Xí- con trai thứ hai[53] của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập. Khi ông chú ruột Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn mất năm 965, Ngô Xương Xí đã 19 tuổi. Và với mô hình từ nhượng hiếu đễ đậm chất Nho gia của Nam Tấn Vương, thì Xương Xí-nhân vật thuộc dòng trưởng của Tiền Ngô Vương Quyền, mới là người xứng đáng được vị vua này cất nhắc vào vị trí tự vương (vua kế vị tương lai). Chính vì thế Ngô Xương Xí được ông chú giao nhiệm vụ trấn giữ Ái Châu (đất mồ mả tổ tông), vừa là đất trọng địa chiếm giữ phía Nam, tạo thành thế gọng kìm kẹp Đinh Bộ Lĩnh ở giữa. Đại Việt sử ký toàn thư ghi khoảng thời gian từ năm 965- 967, là quãng thời gian của “Ngô sứ quân” (Ngô Xương Xí), nối tiếp sau thời đại trị vì của  Tiền Ngô Vương- Dương Tam Kha và Hậu Ngô Vương. Có thể thấy sự trang trọng này qua cách trình bày của nguyên bản Toàn thư, Ngoại kỷ Q.V, trang 25a-25b, cũng như phần bản dịch của Ngô Đức Thọ được in đậm, còn các sứ quân khác thì chỉ là phụ chép, xem ảnh bên dưới[54].
Trang                                                     25b
               25a
Ký hiệu  (từ phải sang trái):
khung nét to: Ngô sứ quân (phàm nhị niên: tổng cộng 2 năm);
Khung nét nhỏ (thụt đầu dòng): phần in đậm trong bản dịch của Ngô Đức Thọ: “họ Ngô, tên húy là Xương Xí,…là cháu gọi Nam Tấn Vương bằng chú.”
Ngoài khung: các sứ quân và diễn biến Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp quân nhà Ngô và các sứ.

Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ chép mục NGÔ SỨ QUÂN như sau: “Vua (TTD nhấn mạnh) húy là Xương Xí, khi Thiên Sách Vương đi lánh nạn lấy con gái ở giang Nam Sách, sinh ra vua, là con cháu con chú của Nam Tấn Vương, ở ngôi được hai năm”[55]. Cách đọc của Ngô Thì Sĩ là có cơ sở. Tuy nhiên, điểm tế nhị ở chỗ, Ngô Xương Xí ở thời điểm đó vẫn đang còn “tiềm để” (chờ đăng quang), chưa chính thức lên ngôi hay đúng hơn không thể lên ngôi.
Vậy tại sao Ngô Xương Xí không những không thể lên được ngôi vua, mà còn bị sử đời sau ghi là sứ quân? Theo chúng tôi, nguyên nhân khá rõ ràng, là bởi vì liên minh Đinh Bộ Lĩnh- Trần Lãm, vào năm 965, đã cắt lãnh thổ và lực lượng quân đội nhà Ngô làm đôi. Ở tuyến đất liền từ Ái Châu ra Cổ Loa, họ Ngô không thể đi qua Hoa Lư vì lúc này (năm 965) Đinh Bộ Lĩnh sau 15 năm luyện quân đã trở thành một lực lượng thống lĩnh cả vùng. Ở tuyến thủy lộ, liên minh Trần Lãm- Phạm Phòng Át đã bịt kín các cửa biển cửa sông. Thế gọng kìm mà nhà Ngô dựng nên để hãm Hoa Lư đã bị bẻ gãy làm hai, và trở nên phản tác dụng. Lực lượng quân đội chính triều ở ngoài bắc còn đủ mạnh để dẫn quân chinh phạt, hòng thay đổi tình thế, còn hai cánh quân của Ngô Xương Xí và Ngô Nhật Khánh có thể coi chỉ là đủ sức cầm cự và phòng ngự trong đất Ái Châu mà thôi (xem bản đồ dưới). Chính vì sử gia đời sau chưa xét đến điểm tế nhị này nên đã liệt Ngô Xương Xí vào hàng sứ quân[56].
Bản đồ tình thế nhà Ngô năm 965-967.
Ký hiệu: gạch đen lớn, trỏ thế liên quân Đinh Bộ Lĩnh- Trần Lãm- Phạm Phòng Át.
Các gạch liền trỏ lực lượng chính thống của con cháu nhà Ngô.
4.3. Cục diện các sứ quân
Cục diện của loạn sứ quân, thực chất có thể vạch ra bốn tuyến lực lượng như sau:
1.                  Lực lượng của triều đình nhà Ngô: gồm Đỗ Cảnh Thạc (và 500 con cháu họ Ngô) ở Đỗ Động Giang, Ngô Xương Xí ở Binh Kiều đất Ái Châu (Triệu Sơn, Thanh Hóa, ngày nay), Ngô Nhật Khánh (châu Đường Lâm, nam Thanh Hóa bắc Nghệ An ngày nay) và có thể một số sứ quân khác chưa xác định được.
2.                  Lực lượng tiếm quyền:  chỉ có quân của Lã Xử Bình bị cô lập tại Cổ Loa.
3.                  Liên minh Trần- Đinh: gồm liên quân của Trần Lãm  ở Bố Hải Khẩu (Thái Bình ngày nay) với Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư và Phạm Phòng Át chiếm Đằng Châu (Hưng Yên ngày nay).
4.                  Lực lượng sứ quân “tự giữ” (chưa xác định cụ thể).
Có thể là quân tiếm quyền do Lã Xử Bình đứng đầu không đủ mạnh để tiến đánh lực lượng của nhà Ngô, nên phải thu về phòng thủ trong thành Cổ Loa. Lực lượng nhà Ngô (Đỗ Cảnh Thạc) có thể đã tiến đánh Cổ Loa, nhưng kinh đô này vốn là một thành trì kiên cố bậc nhất vào thời bấy giờ, cho nên việc đánh hạ có lẽ đã không thực hiện được. Rất tiếc những chi tiết trên chỉ là đoán định, bởi sử liệu không hề cho biết diễn biến đối đầu giữa hai lực lượng này.  
Cục diện chiến tranh có thể thấy rõ nhất là cuộc đối đầu giữa lực lượng Đỗ Cảnh Thạc (quân chính quy nhà Ngô) và nhóm của Trần Lãm- Đinh Bộ Lĩnh. Đại Việt sử ký toàn thư chép: năm 967 khi Trần Lãm chết, 500 con cháu nhà Ngô ở Đỗ Động Giang đã cùng tướng Đỗ Cảnh Thạc cất quân đến đánh Bố Hải Khẩu, rồi bị Ngô phó sứ của Trần Lãm đánh bại ở Ô Man[57]. Đinh Bộ Lĩnh nghe tin ấy, thừa thắng đem quân (có lẽ là hợp quân với Bố Hải Khẩu) đến triệt hạ quân nhà Ngô ở Đỗ Động Giang. Sử liệu chỉ ghi rất vắn tắt là các bộ lạc “đều khuất phục” (vô bất phục) [ĐVSKTT tr.209]. Có thể nói, đây là diễn biến quan trọng nhất của chính trường nhà Ngô. Sau trận chiến then chốt này, lực lượng chủ đạo của Đỗ Cảnh Thạc và 500 con cháu nhà Ngô có thể đã bị tiêu diệt (hoặc hoàn toàn hoặc phần thì bị giết, phần thì trở thành tù binh của Đinh Bộ Lĩnh). Theo gợi ý trong các sử liệu của Trung Quốc (đã dẫn), chúng tôi đặt giả thuyết rằng Đinh Bộ Lĩnh đã thừa thắng tiêu diệt luôn lực lượng của Lã Xử Bình tại Cổ Loa và Kiều Tam Chế ở Phong Châu. Đại Việt sử ký toàn thư ghi “từ đó lại dân ở kinh phủ đều khâm phục theo về. Nhà Ngô mất”. Hai chữ “kinh-phủ” cho thấy, việc đánh diệt Cổ Loa là có thể xảy ra. Nhưng, cũng có thể việc hãm thành đã khiến cho quân của Lã Xử Bình buộc phải đầu hàng.
Như vậy, với việc tiêu diệt đội quân chính thống của nhà Ngô và quân tiếm quyền Lã Xử Bình, thì Đinh Bộ Lĩnh đã nổi lên như một người thống nhất quyền lực bằng sức mạnh quân sự của mình. Sau khi Đỗ Cảnh Thạc và 500 con cháu nhà Ngô bị tiêu diệt, cục diện chính trị đã rõ ràng là nghiêng hẳn về họ Đinh. Một số sứ quân khác, vốn chỉ “tự giữ chức” tại lãnh địa của mình, giờ biết rằng “vận trời” (chữ dùng của Ngô Sĩ Liên) đã về tay họ Đinh nên đều quy thuận để tránh sự đụng độ mà ảnh hưởng đến sinh mệnh cá nhân và quyền lợi gia tộc. Quyền lực đã về một mối. Lãnh thổ được nhất thống.
Tóm lại, từ những sử liệu mới được công bố hoặc tái phát hiện, bài viết đã lần lượt thảo luận về vai trò của Đinh Bộ Lĩnh và bản chất cục diện của loạn sứ quân. Có thể nhận định như sau.  
(1) Cục diện cát cứ ở triều nhà Ngô đã lộ rõ từ năm 951 với Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư, ngoài ra còn phải kể đến liên minh họ Đường- họ Nguyễn ở Thái Bình, và Chu Thái ở Thao Giang. Cát cứ là tình trạng chung của cả ba triều đại Ngô- Đinh- Tiền Lê ở mọi thời điểm. Các nhân sự cát cứ thường là các vọng tộc cũ thời Bắc thuộc, hay thuộc tướng của các vị soái vương tiền nhiệm (đã mất), ngoài ra còn phải kể đến hàng loạt các man động của người thiểu số ở các miền trung du phía Bắc và phía Tây Ái châu (Thanh Hóa ngày nay).
(2) Cục diện các sứ quân thực sự xảy ra toàn diện từ năm 965-967. Chúng tôi đề xuất nên nhìn nhân sự của cuộc động loạn này theo bốn phe chính: (a) phe nhà Ngô (gồm Đỗ Cảnh Thạc, con cháu họ Ngô cùng một số sứ quân khác); (b) phe chống lại triều đình nhà Ngô (Đinh Bộ Lĩnh, Trần Lãm, Phạm Phòng Át), và (c) phe tiếm quyền của Lã Xử Bình. Trên quan điểm đương triều (Ngô) để xác định chính ngụy thì phe Ngô Xương Xí, Ngô Nhật Khánh và Đỗ Cảnh Thạc không nên gộp nhập vào gọi là “sứ quân”; (d) phe “tự giữ”; trong khi đó các lực lượng quân sự cần bổ sung trên bản đồ chính trị vào thời điểm này nên là Lã Xử Bình, Dương Huy và Đinh Bộ Lĩnh. Đây là con số cũng khá đẹp để bù lại ba nhóm Đỗ Cảnh Thạc, Ngô Xương Xí và Ngô Xương Văn.
(3) Cục diện các sứ quân còn nên nhìn nhận lại trên bình diện “động thủ- tự giữ” của các nhóm thế lực. Với sử liệu hiện nay, có thể chia thành hai nhóm như sau: (a) Nhóm các thế lực động thủ tham chiến, gồm Đỗ Cảnh Thạc, Ngô phó sứ (Trần Lãm), Đinh Bộ Lĩnh, Phạm Phòng Át, Lã Xử Bình, Kiều Tam Chế; (b) Nhóm các thế lực tự trị- tự giữ (theo chế độ nhà Ngô và chờ thời thế) gồm: Ngô Nhật Khánh[58], Ngô Xương Xí[59], và một số sứ quân khác (hiện chưa xác định được)[60]… Một số hoạt động của các nhóm thế lực này được sử nhắc đến hầu như chỉ là việc tự giữ đất và xưng “Công” làm hùng trưởng (chứ không phải xưng Vương- làm quốc trưởng).
(4) Đinh Bộ Lĩnh là lực lượng cát cứ, nổi dậy sớm nhất, tồn tại lâu nhất, và cuối cùng đã đứng đầu lực lượng liên minh mạnh nhất đủ thể đánh bại quân nhà Ngô và thống lĩnh các lực lượng quân sự khác. Ông cát cứ tại Hoa Lư từ năm 951 đến năm 965. Trong thời gian 15 năm này, ông đã tiến hành luyện quân và liên kết với sứ Trần Lãm để chuẩn bị cho những thời cơ mới. Từ năm 965 đến năm 967, thế “đa cực” trong cục diện chính trị đã diễn ra. Cuối cùng, năm 967, với một số chiến thắng quan trọng trước Đỗ Cảnh Thạc (500 con cháu họ Ngô), Lã Xử Bình và Kiều Tam Chế, Đinh Bộ Lĩnh đã giành được thế thượng phong, đủ để chấm dứt sự tồn tại của nhà Ngô, đồng thời buộc các sứ quân khác của nhà Ngô phải theo về dưới trướng của mình.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, lấy pháp hiệu Cồ Thành, đóng đô ở Hoa Lư, xưng tôn hiệu Đại Thắng Minh Hoàng Đế, xây dựng nhà nước đa giáo (trong đó nổi lên mô hình “nội Pháp ngoại Phật”), đặt quốc hiệu Đại Cồ Việt[61],… Sang năm sau, ông thực hiện hàng loạt các hôn nhân kiểu liên minh quyền lực với các sứ quân khác[62] nhằm xoa dịu những mâu thuẫn và thù hận qua những năm tháng chiến tranh. Nhưng lịch sử luôn đem đến những bài học bất ngờ. Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn- người con trai giống ông nhất về bản chất tâm tính[63], đã bị ám sát bởi một âm mưu hoàn toàn khác, và cái cách chuyển nhượng quyền lực từ họ Đinh sang họ Lê là điều mà khi sống ông không thể tưởng tượng ra được.
Từ Liêm, ngày 29/12/2011



[1] “Sử thực: những sự thực, những việc xẩy ra trong lịch sử (faits historiques). [Vệ Thạch Đào Duy Anh, Giản yếu Hán Việt từ điển 簡要漢越辭典, (Hãn Mạn Tử, Giao Tiều hiệu đính). Imprimerie TIENG DAN. HUE- Dong Ba. Hué. 1932. tr.213]. Sử thực có thể coi là đối tượng cuối cùng mà sử học muốn hướng đến. Khái niệm này là khá tế nhị. Bởi lẽ chúng ta không khi nào dám cả quyết về một sử thực tuyệt đối như nó đã từng xảy ra trong lịch sử, mà chỉ là những sử thực theo nhãn quan của một số nhóm người nào đó. Tuy nhiên, cũng không thể dựa vào tính tương đối của sử thực để biện bạch cho những hành vi phi sử học.
[2] Sứ quân: (1). Thời Hán gọi các Thứ sử là “sứ quân”. Ví dụ, bài Nhật xuất Đông Nam ngung hành trong Ngọc Đài tân vịnh ghi:  使君从南来,五马立踟蹰 sứ quân tòng Nam lai, Ngũ mã lập trì trù (Sứ quân từ Nam đến, năm ngựa đứng trù trừ). 
(2). Từ đời Hán về sau, là tôn xưng giành cho trưởng quan của các châu quận. Lưu Chương truyện phần Thục Chí sách Tam quốc chí ghi: ﹝张松﹞还,疵毁 曹公 ,劝  自絶,因説  曰:刘豫州 ,使君之肺腑,可与交通 (Trương Tùng về, nói xấu Tào Tháo, khuyên Chương nên chủ động tự tuyệt giao, nhân đấy nói với Chương rằng: ‘ngài Lưu Bị ở Dự Châu, là chỗ ruột rà của sứ quân, có thể đi lại được’).  Phần Tiên chúa truyện của sách này cũng ghi đoạn nổi tiếng sau: 曹公从容谓先主曰:今天下英雄,惟使君与操耳’”按刘备当时为豫州牧 (Tào công thung dung nói với Tiên chúa rằng: ‘anh hùng trong thiên hạ đời nay, chỉ có sứ quân và Tháo mà thôi’). Bởi khi ấy Lưu Bị đang làm chức Mục của Dự Châu (Dự Châu mục). 
(3). Từ tôn xưng trỏ người phụng mệnh xuất sứ. Vương Tố truyện trong Hán thư ghi: 使君顓杀生之柄,威震郡国 (Quyền bính sát sinh của sứ quân Húc thực là oai chấn quận quốc). Nhan Sư Cổ chua: 为使者,故谓之使君(làm sứ giả, cho nên gọi là sứ quân)  [Từ nguyên. Thương vụ ấn thư quán. 1997. tr.0111]. Như vậy, khái niệm “sứ quân” trong sử liệu giai đoạn từ đời Hán đến thế kỷ X, có thể dùng với nghĩa thứ hai. Một số sách nhấn mạnh rằng, “sứ quân” không phải là tên gọi chính thức của chức quan, mà là một tên gọi mang tính tôn xưng (dùng trong khẩu ngữ , dân gian) dành cho người giữ chức quan đó (châu mục). Chính từ nghĩa này, mà văn ngôn từ đời Tống đến đời Thanh mới có nghĩa dẫn thân thứ tư, với tư cách là đại từ nhân xưng ngôi thứ 2 trỏ ý trang trọng, kính cẩn. Cần nhấn mạnh một điểm là “sứ quân” không có nghĩa “the twelve of warlords” của Keith Weller Taylor [1982: 275], mà chỉ là “cách gọi trang trọng trong văn ngôn thế kỷ X về sau” của sử gia giành cho những nhân vật có chức tước này. Lưu ý, nhiều năm trở lại đây, chúng tôi được dạy rằng “sứ quân” còn có hàm  ý là “người nổi loạn”. 
[3] Các sử quan Nho gia thường xếp nhà Đinh vào phần Bản kỷ, còn nhà Ngô vào phần Ngoại kỷ. Sở dĩ như vậy, vì xét theo tiêu chí của Nho gia, Đinh Bộ Lĩnh đã đánh mốc dấu quan trọng trong việc xây dựng mô hình nhà nước độc lập đầu tiên của Việt Nam, có thể thấy qua lời bàn sau của Lê Văn Hưu: “Vua mở nước dựng đô, đổi xưng hoàng đế, đặt trăm quan, lập sáu quận, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý trời vì nước Việt ta mà lại sinh ra bậc thánh triết để tiếp nối quốc thống của Triệu vương chăng” (ĐVSKTT tr.211). Cách đánh giá ấy đều dựa trên những sử liệu còn được ghi chép lại về Đinh Bộ Lĩnh mà thiếu hụt khá nhiều thông tin về đời nhà Ngô. Bởi dẫu sao, Ngô Quyền mới là người đầu tiên xưng vương trong thế kỷ X. Cho nên, các nhà nghiên cứu lịch sử hiện đại đã cải chính cách hiểu trên, coi Ngô Quyền là vị vua đầu tiên của nước ta sau nghìn năm Bắc thuộc. Cách lý giải này là hữu lý. Tuy nhiên, cần nhìn nhận một cách công bằng hơn, rằng: để giành được độc lập tự chủ, không nên chỉ tính đến ba nhà Ngô nhà Đinh nhà Tiền Lê, mà còn phải kể đến sự cầm quyền và những ý đồ tự trị- độc lập của họ Khúc và họ Dương, đặc biệt là Dương Đình Nghệ. [Tham khảo Nguyễn Diên Niên và Phan Bảo. (2011). Dương Đình Nghệ với ba nghìn người giả tử của ngài. www.vanhoanghean.vn]
[4] Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2011). Lịch sử 7 (tái bản lần thứ 8). Nxb Giáo dục Việt Nam. Hà Nội. tr. 27-28.
[5] Trần Trọng Kim. (1920). Việt Nam sử lược. in lần thứ nhất, Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội.
[6] Trịnh thị. (1624-1657). Thiên Nam minh giám (Gương sáng trời Nam). tr.4a. (Thư viện Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh , ký hiệu HNv.006). Tham khảo phần phiên khảo của Hoàng Thị Ngọ, (1994). Nxb Văn học. Hà Nội.
Xem thêm Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái. (tk XIX). Đại Nam quốc sử diễn ca. (Lã Minh Hằng khảo cứu, phiên âm, chú thích. Nxb Văn học. Hà Nội. 2008. tr. 88-90.
[7] Ghe (từ Việt cổ): nhiều, khắp.
[8] Tháo (từ cổ): om sòm. Lưu tích còn trong từ quát tháo, cấu trúc từ pháp giống như các cụm: cáu um, quát nhặng, cười ngất, ho sặc,…
[9] Văn bia Tiền triều Đinh Tiên Hoàng đế công đức bi ký tịnh minh khắc năm Hoằng Định 9 (1608), Đền vua Đinh (Ninh Bình), thác bản Viện NC Hán Nôm, ký hiệu 29483-29484. Bia này do Nguyên soái Quốc chính phụ Bình An Vương Trịnh Tùng cho khắc.
Tiền triều Đinh Tiên Hoàng đế công đức tăng tu điện miếu bi ký khắc năm Chính Hòa 17 (1696), Đền vua Đinh (Ninh Bình), thác bản Viện NC Hán Nôm, ký hiệu 29481-29482.
Tiền triều Đinh Tiên Hoàng đế công đức bi ký khắc năm Thiệu Trị 3 (1843), Đền vua Đinh (Ninh Bình), thác bản Viện NC Hán Nôm, ký hiệu 29485-29486. Bia này ghi “ngã Việt thái bình chi nghiệp thực cơ ư thử” (nghiệp thái bình nước Việt ta thực đặt nền móng từ đây), hay “bản quốc chính thống chi thủy” (khởi nguồn chính thống nước ta).

[10] Chính Hòa thứ mười tám (1697). Đại Việt sử ký toàn thư. Nội các quan bản. Bản khắc in.
Bản dịch. 1998. Tập 1. Ngô Đức Thọ dịch chú, Hà Văn Tấn hiệu đính. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. tr.209, tr.211.
[11] ĐVSKTT. Sdd. tr.210.
[12] ĐVSKTT. Sdd. tr.209.
Hùng trưởng: 1. (động từ) xưng hùng, xưng bá. Ví dụ: Sách Tam quốc chí (Ngô chí. Sĩ Nhiếp truyện) ghi:  兄弟并为列郡,雄长一州,偏在万里,威尊无上. (anh em của Nhiếp đều chiếm các quận, xưng hùng một châu, trải khắp vạn dặm, oai không gì bằng). 2. (danh từ) người xưng hùng, xưng bá. Sách Tần tính lục quốc bình thoại ghi:这个七国,当初互为雄(bảy nước này, ban đầu cùng làm hùng trưởng). TS Nguyễn Đại Cồ Việt lưu ý chúng tôi rằng, Các hùng trưởng cát cứ có thể có nhiều hơn các “sứ quân”. 
[13]  Lê Tắc.( 1335) An Nam chí lược. Mạnh Nghị Trần Kinh Hòa dịch  (1960, tb 2002). Nxb Thuận Hóa- Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây. Huế. Tr.227.
[14] ĐVSKTT. Sdd. tr.211.
[15] Đại Việt sử ký toàn thư dùng chữ trí (con tin, làm con tin), Việt sử lược ghi cống (cống). Chúng tôi cho rằng, cả hai cách ghi trên đều có lý riêng.
[16] Khuyết danh. (đời Trần) (Đại) Việt sử lược. Trong Tứ khố toàn thư (đời Càn Long nhà Thanh).
[17] Ngoài hai sử liệu trên còn thấy Việt sử cương mục tiết yếu của Đặng Xuân Bảng chép lại đoạn này.  Đặng Xuân Bảng. Việt sử cương mục tiết yếu. Hoàng Văn Lâu dịch và chú giải. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. 2000. tr.60.
[18] Yamamoto Tatsuro (1950). 安南史研究 (Nghiên cứu lịch sử An Nam). Yamakawa Shuppansha, Tokyo. Pp.51-52 [Chuyển dẫn theo Keith Weller Taylor 1982: 277 ]
[19] Đặng Xuân Bảng. sdd. tr.60.
[20] Đặng Xuân Bảng ghi rằng: hai vua họ Ngô thấy Bộ Lĩnh cho cung thủ bắn vào con thì “tha Liễn và bãi binh, rút quân về” ngay năm 951 [sdd. tr.60]. Xét sử liệu đã trích ở ĐVSKTT, nay cải chính.
[21] Đặng Xuân Bảng  (sdd, tr. 60) đã có lý khi cho rằng Đinh Bộ Lĩnh đã liên minh với Trần Lãm từ năm 951. Chính vì suy nghĩ như vậy, ông cho rằng, Trần Lãm mới là quân cát cứ và nổi dậy sớm nhất. Nhưng, xét các sử liệu chính thống như Toàn thư không hề ghi nhận một dòng nào về sự cát cứ của Trần Lãm, chúng tôi thấy, sự kiện Đinh Bộ Lĩnh nổi loạn là sự kiện lớn nhất của thời đại hai vua họ Ngô, mặt khác, lại cát cứ ngay năm hai vị lên ngôi. Đoạn chép Đinh Bộ Lĩnh cát cứ ở Hoa Lư năm 951 dài gấp ba lần so với đoạn Nam Tấn Vương và Thiên Sách Vương lên ngôi và cai trị. Cho thấy, Đinh Bộ Lĩnh mới là người nổi dậy sớm hơn cả. Còn việc họ Đinh và họ Trần nhận làm cha nuôi con nuôi thì chúng tôi xác định là không thể diễn ra vào năm 967 như Toàn thư đã ghi, mà phải là từ trước đó. Chúng tôi tạm đưa ra hai giả thuyết. Giả thuyết 1: hai người đã nhận cha- con nuôi từ trước 951. Nếu như giả thuyết này đúng, thì việc Đinh Bộ Lĩnh nổi dậy ắt cũng có tay của Trần Minh Công, nhưng có lẽ lúc đó ông chưa ra mặt, sự chưa ra mặt ấy ắt là có sự tính toán của một người đã già giặn trên chính trường. Giả thuyết 2: hai người nhận cha- con nuôi diễn ra trong khoảng từ 951-965, thì âm mưu Trần Minh Công chống lại nhà Ngô cũng đã khá rõ ý. Dù trước hay sau, thì chúng tôi thấy Trần Minh Công đã không thuận theo nhà Ngô từ khá sớm, đúng như Đặng Xuân Bảng đã phán đoán. Tuy nhiên, sử liệu không có thông tin cụ thể nào chắc chắn cho ta khẳng định ông đã cát cứ từ trước năm 965. Tạm chỉ có thể nhận định là ông thực sự lộ mặt sau cái chết của Nam Tấn Vương.
[22] Theo chúng tôi, Ngô Nhật Khánh là người châu Đường Lâm thế kỷ X (Nam Thanh Hóa, Bắc Nghệ An ngày nay) chứ không phải ở xã Đường Lâm (mới thành lập từ những năm 1960 tại Sơn Tây, Hà Nội ngày nay). Chỉ có như vậy, ta mới lý giải được vì sao sau khi Đinh Bộ Lĩnh bị giết, Ngô Nhật Khánh mới xẻo má vợ (con gái Đinh Tiên Hoàng), rồi dễ dàng bỏ chạy sang Chiêm Thành cầu viện. [Vấn đề này xem thêm Trần Ngọc Vương, Nguyễn Tô Lan, Trần Trọng Dương. 2011. Đường Lâm là Đường Lâm nào? (Tìm về quê hương Đại Sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu). Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển. Huế. Tr.115-137.
[23] Nguyễn Danh Phiệt phủ nhận các cứ liệu trên, để đưa ra kết luận rằng Đinh Bộ Lĩnh không hề nối chức cha. Ông viết: “Chúng ta biết chỉ có Tống sử, An Nam chí lược, và Việt kiệu thư chép việc này. Các bộ sử của ta như Việt sử lược, Toàn thư, Cương mục chỉ chép sau khi bố mất, Đinh Bộ Lĩnh cùng mẹ về ở cạnh đền Sơn Thần trong động núi. Thêm vào đó, kiểm tra trong truyền thuyết, không hề có một chi tiết nào trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến việc Đinh Bộ Lĩnh từng thay cha giữ chức thứ sử Hoan Châu. Đến đây, có thể kết luận điều ghi chép trong Tống sử, An Nam chí lược Việt Kiệu thư là không chính xác. Đinh Bộ Lĩnh mồ côi cha ở độ tuổi gần trưởng thành hoặc đã trưởng thành, nhưng ông không thay cha giữ chức thứ sử Hoan Châu” [1990: 55]. Cách phủ định sử liệu của Nguyễn Danh Phiệt cần phải thảo luận lại ở đây. Tống sử (soạn 1343),  An Nam chí lược (soạn sau 1288), và Việt kiệu thư (đời Minh) đều là các sử liệu sớm.  Trừ Việt sử lược, Toàn thư, Cương mục đều là các sách xuất hiện muộn hơn. Vì thế, không nên, áp đặt sử ta ghi đúng hơn sử Tàu. Hơn nữa, dùng sử liệu muộn hơn để phủ định sử liệu sớm hơn là một việc phải hết sức thận trọng. Nhưng đáng ngại nhất là tác giả lại phủ định các sử liệu bằng truyền thuyết.
[24] Nguyễn Danh Phiệt. 1990. sdd. tr.55.
[25] Đặng Xuân Bảng trong cuốn Việt sử cương mục tiết yếu cũng tỏ ra nghi ngờ về trình tự và nguyên nhân rối loạn như sau: “Sử cũ nói khi Nam Tấn mất, 12 sứ quân đua nhau nổi lên, bắt đầu từ Ngô Xương Xí kết thúc ở Trần Minh Công. Nhưng bộ Lĩnh vốn dựa vào Minh Công. Minh Công chết rồi mới thay lĩnh số quân đó. Mà năm Xương Văn thứ nhất đã ghi Bộ Lĩnh chiếm Hoa Lư, hai vương đi đánh không được. Thế thì Minh Công khởi binh phải xảy ra trước khi Xương Văn lấy lại được nước. Từ đó mà suy ra thì 12 sứ quân, phải có người khởi binh trước, người khởi binh sau, không phải là đến khi Nam Tấn mất rồi, mới cùng lúc nổi dậy” [Đặng Xuân Bảng. Việt sử cương mục tiết yếu. Hoàng Văn Lâu dịch và chú giải. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. 2000. tr. 62].
[26] “Mỹ hóa” lịch sử hay “xấu hóa” lịch sử đều là hai xu hướng có hại cho sử học, xã hội và dân tộc.
[27] Tạ Chí Đại Trường viết: “Và nếu không vướng vào vị thế chính ngụy thì còn phải kể thêm Đinh Bộ Lĩnh như sử Minh đã ghi” [Tạ Chí Đại Trường. 2009. Bài sử khác cho Việt Nam (Sơ thảo). Văn Mới. USA. tr.124].
[28] Ông viết: “Chúng ta không biết gì thêm về Lữ Đường, Lý Khuê của sử quan, Dương Huy và tên Ngô Xử Bình do Lê Tắc dẫn,… Chưa kể các lực lượng phía Nam Hoa Lư như Lê Lương, như tập đoàn họ Lê có người nuôi Lê Hoàn. Nghĩa là số sứ quân, không kể người khuất lấp, đã có trên mười hai người” [Tạ Chí Đại Trường. 2009. Bài sử khác cho Việt Nam (Sơ thảo). Văn Mới. USA. tr.124].
[29] Đặng Xuân Bảng. sdd. tr.61. “Trước đây, người Thao Giang là Chu Thái quật cường không chịu phục. Vương đích thân đi đánh. Bắt Thái đem chém”. Như vậy, Thao Giang là điểm cát cứ đã được Nam Tấn Vương bình định. Có lẽ, trong 15 năm trị vì của mình, Nam Tấn Vương đã thực hiện nhiều cuộc dẹp loạn và cát cứ như vậy. Duy có Hoa Lư và Thái Bình thì ông chịu thất bại. Những việc dẹp loạn này xảy ra phổ biến cả ở đời Lê Hoàn, và Lê Ngọa Triều. Khảo sát, cắm bản đồ cho các điểm chinh phạt cát cứ này sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn tình hình mở rộng lãnh thổ quốc gia.
[30] Đường thư, Địa lý chí nói nhà Đường cắt huyện Thái Bình đặt làm huyện Phong Khê,
lại nói Phong Khê thuộc Phong Châu, "hai thôn Thái Bình, Đường Nguyễn có lẽ ở đấy" (CMTB4, 11b).
[31] Sách Ngũ đại sử五代史do歐陽修 đời Tống soạn, Từ Vô Đảng徐無黨chú. Sách còn gọi là Tân ngũ đại sử  hay Ngũ đại sử ký là một bộ chính sử nhưng do cá nhân biên soạn. Âu Dương Tu tiến hành biên soạn từ năm 1036 đến năm 1054 (mười tám năm). Tân ngũ đại sử gồm bảy mươi tư quyển, bao gồm Bản kỷ 12 quyển, Liệt truyện 45 quyển, phỏng theo bút pháp xuân thu có bao biếm bình thán, trong đó đặc biệt đề cao tính chất khảo cứu. Các bộ sử khác thường soanh theo thể chí (chép), nhưng tác giả dựa trên nguyên tắc “dĩ lễ tu sử” cho rằng đời ngũ đại hỗn loạn, điển chương chế độ không có gì có thể giữ nên không thể dùng phong cách chí được. Đời đời Kim, sách được đưa vào học quan, trở nên cực kỳ phổ biến.
[32]  Âu Dương Tu tự là Vĩnh Thúc, hiệu Túy Ông hay Lục Nhất Cư Sĩ, là người đứng đầu của vận động cổ văn đời Bắc Tống, nằm trong bát đại gia đời Đường Tống. Ông đồng thời là một sử gia nổi tiếng, từng phụng mệnh vua cùng với nhóm Tống Kỳ biên soạn cuốn Tân Đường thư. Chủ trương chính trị “sùng Nho phục cổ của ông có ảnh hưởng đậm nét đến quan điểm “tu sử” trogn các tác phẩm sử học của ông.
[33] Tục tư trị thông giám trường biên là một cuốn đoạn đại biên niên sử lớn nhất trong số các trước tác sử học tư nhân thời cổ của Trung Hoa. Nguyên có chín trăm tám mươi quyển, nay chỉ còn năm trăm hai mươi quyển.  Lý Đảo phỏng theo thể lệ trong Tư trị thông giám của Tư Mã Quang, chép sử từ đời Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận cho đến Tống Khâm Tông Triệu Hoàn Tĩnh Khang, chép chín triều nhà Tống trong 168 năm. Cuốn sử này được các học giả đời cận đại đánh giá rất cao. Cuốn sử này ngoài việc tham khảo các chính sử, thực lục còn tham cứu thêm các gia lục, dã ký, có hiệu khám đồng dị, đính chính nghi lầm, khảo chứng tường tận, thảy đều có căn cứ. Nguyên tắc của tác giả là “thà chịu phồn tạp còn hơn giản lược”( 宁失於繁﹐无失於略), nếu có những ghi chép bất đồng đều giữ nguyên để chờ khảo cứu tiếp, đồng thời lại có góp thêm những nhận định riêng của mình về những đồng dị đó. Vì thế này này cùng loại với sách Thông giám khảo dị. Khi sưu tầm tư liệu, ông làm phiếu và các hộp phích cho từng năm xắp xếp theo trình tự thời gian. Cuốn này được coi là một trong những sự tịch cơ bản đề nghiên cứu về các nhà Liêu, Tống, Tây Hạ,… Chín trăm tám mươi quyển sau này bị thất tán, hiện chỉ còn thấy 520 quyển trong Tứ khố toàn thư Vĩnh Lạc đại điển.
[34] Lý Đảo 李燾(1115- 1184) tự là Nhân Phủ, Tử Chân, hiệu Tốn Nham, người Đan Lăng-My Châu (nay là huyện Đan Lăng, tp My Sơn, tỉnh Tứ Xuyên), năm 1138 đỗ Tiến sĩ, được điều làm Hoa Dương Bạ. Năm 1172 làm Lô Châu Tri châu. Thời Vương học thịnh hành, ông chuyên chú cổ tịch, lấy sử làm trách nhiệm cá nhân. Ông phỏng theo Tư trị thông giám của Tư Mã Quang viết nên cuốn Tục tư trị thông giám trường biên. Trải làm quan đến Lễ bộ Thị lang, Tiến Phu Văn Các Học sĩ kiêm Thị độc, Đồng tu quốc sử. Tác phẩm của ông khá nhiều, có Tốn Nham văn tập , Tứ triều thông sử , Xuân thu học…hơn năm mươi loại, phần lớn đều thất truyền. Hiện chỉ còn Tục tư trị thông giám trường biên, Lục triều chế địch đắc thất thông giám bác nghị六朝制敌得失通鉴博议(10 quyển), Thuyết văn giải tự ngũ âm vận phả说文解字五音韵谱(10 quyển). Đời Thanh đều nhập vào Tứ khố toàn thư.  
[35] Cửu triều biên niên bị yếu là sách hợp lại từ Biên niên cử yếu Bị yếu . Đương thời vốn là một sách, nhưng sau cuốn Cử yếu thất lạc, chỉ còn lại phần này. Sách này ghi chép thực lục và nhật lịch cũng như toát yếu lại sách Tục thông giám trường biên续通鉴长编của Lý Đảo李焘, lại thâu chép , bảo cứu từ các sách của hơn mười nhà khác như Tư Mã Quang, Từ Độ, Triệu Nhữ Ngu...
[36] Trần Quân陳均 (?-?) người đời Nam Tống, tự Bình Phủ平甫, hiệu Vân Nham, người đất Bồ Điền莆田. Mã Lâm Đoan trong Văn Hiến thông khảo ghi ông có các sách Biên niên cử yếu (ba mươi quyển), Bị yếu (14 quyển). Nay đều đã thất truyền.
[37] Đoạn này còn thấy chép trong các sách Ngự phê lịch đại thông giám tập lãm 御批歷代通鑑輯覽quyển bảy mốt và Tống sử kỷ sự bản mạt 宋史紀事本末quyển hai.
[38] Ngọc hải là bộ loại thư quy mô rất lớn của Vương Ứng Lân đời Nam Tống, gồm 200 quyển, phân làm các mục Thiên văn, Địa lý, Quan chế, Thực hóa,…tổng cộng 21 môn loại, được Tứ khố đề yếu đánh giá “các loại thư Đường Tống không có tác phẩm nào vượt hơn được”. Bộ sách này thâu gộp các “thực lục” và “quốc sử nhật lịch” thời Tống, được đánh giá là rất có giá trị về mặt sử liệu. Cuốn cuối cùng của bộ này còn phụ thêm bốn quyển Từ học chỉ nam辞学指南 và 13 cuốn do ông soạn như Thi khảo诗考, Thi địa lý khảo诗地理考
[39] Vương Ứng Lân王应麟 (1223- 1296) tự là Bá Hậu, hiệu Hậu Trai, người huyện Cẩn (Nay là Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 1241, điều làm Tây An Chủ bạ. Năm 1256, trúng khoa Bác học hoành từ, lại rời làm Thái Thường Chủ bạ… Sau làm quan đến Lễ bộ Thượng thư kiêm Cấp sự trung. Vương Ứng Lâm là học giả nổi tiếng thời Tống mạt, trứ tác dày dặn, nhưng ảnh hưởng nhất đến đời sau thì có Khốn học kỷ văn困学纪闻, Ngọc hải . Ngoài ra còn có cuốn Thâm Ninh tập (đã mất). Chỉ có quyển ba bảy ba tám Lưỡng Tống danh hiền tiểu tập两宋名贤小集còn được chép trong Vương Thượng thư di cảo王尚书遗稿. Niên phả Thâm Ninh Tiên sinh niên phả深宁先生年谱về ông được Tiền Đại hân chép. Các truyện về ông còn thấy trong Tống sử. 
[40] Văn hiến thông khảo文献通考của Mã Đoan Lâm gồm 24 môn loại, 375quyển. Sách ghi từ thượng cổ đến những năm Gia Định đời Nam Tống. Thể lệ theo lối thông điển. Nhưng lại đặt “thực hóa” (sản vật) lên hàng đầu cho thấy tác giả rất coi trọng thương mại và kinh tế. Ngoài ra, phần Lễ điển chiếm trọn 100 quyển, Xã giao khảo chiếm 60 quyển. Với tác phẩm này, Mã Đoan Lâm được coi là người đưa thông khảo lên một bước phát triển mới.
[41] Mã Đoan Lâm (1254- 1323) tự Quý Dư, hiệu Trúc Châu, người Lạc Bình, Nhiêu Châu (Lạc Bình, Giang Tây ngày nay), cha ông là Mã Đình Loan- Thừa tướng cuối cùng của triều Nam Tống từng giữ các chức Quốc sử viện Biên tu, Thực lục viện Kiểm thảo. Ông là mộ trong những sử gia tiến bộ thời cổ, phát triển thể thể điển chí với thể tài tân sử thư do Đỗ Hựu sáng lập, tức là lấy sự loại làm đối tượng nghiên cứu đồng thời phát huy lối hội thông của Trịnh Tiều.
[42] Lê Trắc.( 1335) An Nam chí lược. Mạnh Nghị Trần Kinh Hòa dịch  (1960, tb 2002). Nxb Thuận Hóa- Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây. Huế.  tr.53.
[43] Lê Trắc.( 1335). Sdd. tr.224.
[44] Tham khảo thêm bản dịch của Trần Kinh Hòa, [Lê Trắc.( 1335). Sdd. tr.227].
[45] Tống sử kỷ sự bản mạt宋史纪事本末là sử thư ghi chép lịch sử hơn 300 nhà Tống (960- 1279), dùng thể tài kỷ sự bản mạt, viết nối theo cuốn Thông giám kỷ sự bản mạt 通鉴纪事本末, tổng cộng có 109 quyển, do của Trần Bang Chiêm陳邦瞻 đời Minh soạn tiếp nối theo các tác giả trước đó là Phùng Kỳ馮琦và Thẩm Việt沈越. Sách hoàn thiện năm Vạn Lịch 22 (1604) . Kỷ sự bản mạt là thể tài lấy sự kiện lịch sử làm đối tượng, ghi chép trọn vẹn một sự kiện lịch sử từ đầu đến cuối. Thể tài này khắc phục được lối biên niên phân tán và lối kỷ truyện phồn tạp.    
[46] Phùng Kỳ (1558- 1604) tự là Dụng Uẩn, hiệu Trác Am, chắt của Phùng Dụ. Tiến sĩ năm 1577. Trải giữ các chức Biên tu, Thị giảng, Lễ bộ Hữu thị lang, …Tác phẩm có Tông Bá tập宗伯集(81 quyển), Du Dã Nguyên ký游冶源记, Du Thạch Môn sơn ký游石门山记, Túc quan thường sớ肃官常疏
Trần Bang Chiêm (1557-1623), tự Đức Viễn, người Cao An. Tiến sĩ năm 1609. Trải giữ các chức Nam Kinh Đại Lý tự Bình sự, Nam Kinh Lại bộ Lang trung, Chiết Giang Tham chính, Phúc Kiến Án sát sứ,…
[47] Ngô Nhậm Thần吴任臣, học giả đời Thanh, nhà tàng thư lớn của thời này. Ông vốn tên Ngô Chí Doãn, hiệu Thác Viên. Ông nội làm Phúc Kiến Bô điền tịch, sau theo cha đến Nhân Hòa (Hàng Châu, Chiết Giang ngày nay). Năm Khang Hy thứ tám (1679) tiến cử Bác học Hồng từ khoa, giữ chức Kiểm thảo. Thích đọc kỳ thư, thích sưu tập sách vở. Ông sưu tập các sách vở chép việc từ đời Đường về sau thành bộ Thập quốc xuân thu十国春秋gồm 114 quyển. Tác phẩm biên soạn có Chu lễ đại nghĩa周礼大义, Tự vị bổ 字汇补, Xuân thu chính sóc khảo biện春秋正朔考辨, Thác Viên thi văn tập托园诗文集, Sơn hải kinh quảng chú山海经广注.
[48] Ngô Thì Sĩ. 1800. Đại Việt sử ký tiền biên. Bản khắc triều Tây Sơn. Ngô Thì Nhậm hiệu đính. Dương Thị The, Lê Văn Bảy, Nguyễn Thị Thảo, Phạm Thị Thoa dịch chú. Lê Duy Chưởng hiệu đính. Nxb KHXH. Hà Nội. 1997. tr.146.
[49] Đặng Xuân Bảng. sdd. tr.62. Nguyên bản tr.40.
[50] Keith Weller Taylor đọc nhầm sử liệu, coi nhà Ngô chỉ còn có số quân là 500 người, và ông giải thích rằng đây chứng tỏ sự suy yếu của nhà Ngô sau nhiều năm đi dẹp loạn. [1982: 278]. Trong khi Toàn thư ghi: 及明公卒會杜洞江吳先主子弟五百人餘率眾來攻(Khi Minh Công mất, gặp lúc bọn con em của Ngô Tiên chúa ở Đỗ Động Giang hơn 500 người đem quân đến đánh) [sdd. 209]
[51] Nguyễn Danh Phiệt cũng đồng thuận với cách ghi trên của Toàn thư Việt sử lược để phủ định lại việc “các thổ hào cứ tụ tập quân đánh lẫn nhau” trong Cương mục.  Ông viết: “Liệu có thể từ những điều ghi chép của Việt sử lược Toàn thư để chuyển dịch sang hình thức nội chiến giữa các sứ quân như Cương mục đã chép được không? Kiểm tra qua thần tích, truyền thuyết, cho đến nay, tuyệt nhiên chưa hề gặp một chi tiết nào nói đến chuyện đánh lẫn nhau trong số 12 sứ quân.” Tuy rằng, ông vẫn dùng “truyền thuyết” như một cứ liệu tối hậu để kiểm tra chính sử. Song, chúng tôi chấp nhận ông ở hai điểm: ông dùng hai sử liệu cổ hơn để phê phán sử liệu muộn hơn; và dùng thần tích để soi chiếu cho sử liệu. Thời điểm biên soạn, và số lần biên soạn là hai tiêu chí quan trọng ở đây. Cứ liệu truyền thuyết chỉ nên coi là tham khảo. Chúng tôi quan niệm, thần tích là một dạng văn bản hóa “truyền thuyết dân gian”, và các truyền thuyết được sưu tầm điền dã, là các tư liệu có ý nghĩa cho nghiên cứu tín ngưỡng ở góc độ nhân học;  truyền thuyết không phải là sử liệu, cho nên càng không thể dùng nó để phê phán sử liệu. Dù vậy, trong truyền thuyết không phải là không có yếu tố sự thật. Từ truyền thuyết truyền khẩu, từ truyền thuyết đã thần tích hóa đến sử thực là có một khoảng cách khá xa, phải rất thận trọng để không nhầm giữa tín niệm dân gian (đối tượng của folklore) và sử thực (đối tượng của sử học).
[52] Nguyễn Danh Phiệt đã có những nghiên cứu chi tiết và toàn diện về quá trình Đinh Bộ Lĩnh chinh phục các sứ quân. Cụ thể xin xem [Nguyễn Danh Phiệt 1990: tr.67-75].
[53] Con trai cả của Ngô Xương Ngập là Ngô Chân Lưu. Ngô Chân Lưu như vậy là cháu đích tôn của Ngô Quyền. Nhưng Ngô Chân Lưu đã xuất gia từ năm 944- khi ông nội Ngô Quyền mất, và bố đẻ Xương Ngập bị Dương Tam Kha truy sát nhiều lần. Trong thời gian trốn chạy tại Trà Hương thuộc Nam Sách Giang (Nam Sách, Hải Dương ngày nay), Xương Ngập lấy con gái của ân nhân Phạm Lệnh Công và sinh ra Ngô Xương Xí. Như vậy, Ngô Xương Xí là anh cùng cha khác mẹ với Ngô Chân Lưu. Toàn thư ghi Xương Xí “là cháu gọi Nam Tấn Vương bằng chú” là chính xác. Ngô Chân Lưu sinh năm 933, đến năm cha ông bị truy sát (năm 945), thì ông đã 13 tuổi. Cứ coi như Ngô Xương Xí lấy bà thứ ngay năm này thì phải đến năm sau Ngô Xương Xí mới ra đời. Như vậy, Ngô Xương Xí kém Ngô Chân Lưu ít nhất 14 tuổi. Tức mốc thời gian Xương Xí ra đời sớm nhất là vào năm 946. [vấn đề mối quan hệ của hai nhân vật này xin xem thêm Trần Trọng Dương. Khuông Việt thiền sư hay phức thể dung hội Nho Phật. Kỷ yếu Hội thảo Phật giáo – Văn học với 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Nxb Văn hóa. 2010. tr.97-109.]
[54] Việt sử lược lại chép rằng, thời họ Ngô trị vì như sau: “Từ Tiền Ngô Vương đến Hậu Ngô Vương gồm có 3 đời vua. Bắt đầu từ năm Mậu Tuất (năm 938- ND) và chấm dứt vào năm Ất Sửu (năm 965- ND) cộng tất cả 28 năm thì mất.” Cách chép này đã không thấy kiểu ghi chính thống quan phương như Đại Việt sử ký toàn thư đã nêu. Giai đoạn 965-967 được định danh một cách ngắn gọn là “Mười hai sứ quân”. Cách duy danh như vậy, theo chúng tôi là có vấn đề, như đã nêu.
[55] Ngô Thì Sĩ. 1800. Đại Việt sử ký tiền biên. Bản khắc triều Tây Sơn. Ngô Thì Nhậm hiệu đính. Dương Thị The, Lê Văn Bảy, Nguyễn Thị Thảo, Phạm Thị Thoa dịch chú. Lê Duy Chưởng hiệu đính. Nxb KHXH. Hà Nội. 1997. tr.146
[56] Đến như Ngô Thì Sĩ cũng vậy, trên ông chép Ngô Xương Xí là vua. Nhưng đoạn dưới lại trượt theo cách bao biếm của nhiều sử gia trước ông mà phê phán Ngô Xương Xí như sau: “Ngô sứ quân là con thứ của dòng họ lớn nối cơ nghiệp đã suy của cha chú, ngôi báu mất, lòng người chia lìa, hào kiệt thừa cơ mà nổi dậy, chia cắt huyện ấp, cắn xé lẫn nhau, thế mà [Xương Xí] đã lấy chút đèn tàn ở xứ Bình Kiều mà dự vào hàng ngũ sứ quân” [Ngô Thì Sĩ. 1800. sdd. Tr.149]
[57] Ô Man có lẽ là quê- hoặc đất phân phong của Ngô phó sứ. Ngô Thì Sĩ cho rằng Ngô phó sứ ở đây chính là Lã Xử Bình, ông viết: “Thập quốc chí chép: Đinh Bộ Lĩnh và con là Liễn đánh bại bọn Xử Bình. Ở đây chép là đánh Ngô phó sứ, ắt là Xử Bình không còn nghi ngờ ghì nữa, mà Tiên Hoàng dẹp được 12 sứ quân, trận này là trận cơ bản. Sử không chép rõ đấy thôi”. [Ngô Thì Sĩ. 1800. Đại Việt sử ký tiền biên. Bản khắc triều Tây Sơn. Ngô Thì Nhậm hiệu đính. Dương Thị The, Lê Văn Bảy, Nguyễn Thị Thảo, Phạm Thị Thoa dịch chú. Lê Duy Chưởng hiệu đính. Nxb KHXH. Hà Nội. 1997. tr.148]. Theo logic sự kiện như Toàn thư ghi: Đỗ Cảnh Thạcvà 500 con cháu họ Ngô nhân Trần Lãm mất mà dẫn quân tiến đánh sứ quân của ông này ở Bố Hải Khẩu. Như thế, Ngô phó sứ ở đây là phó sứ của Trần Lãm, chứ không phải là Ngô Xử Bình- tham tá của Xương Văn. Vả lại, Xương Văn là vua, chứ không phải Sứ quân. Như thế, đất Ô Man của Ngô phó sứ là nằm trong lãnh địa của Trần Lãm. Có sách cho lãnh địa của Trần Lãm thời đó tên là Trường Châu. Nếu thuyết này đúng thì Trần Lãm nguyên là Trường Châu Thứ sử của nhà Ngô.
[58] Việt sử cương mục tiết yếu ghi không thống nhất về hiệu của Ngô Nhật Khánh trong giai đoạn loạn sứ quân. Phần liệt kê của 12 sứ thì ghi Ngô Nhật Khánh xưng là Ngô Lãm Công, đoạn sau khi viết về việc Nhật Khánh xẻo má vợ, chửi nhạc phụ Đinh Tiên Hoàng rồi sang cầu viện binh Champa thì lại ghi “trước xưng là An Vương cùng 12 sứ quân chiếm đất xưng hùng” [sdd. Tr.66]. Theo chúng tôi, hiệu An Vương là do Đinh Bộ Lĩnh phong cho phò mã của mình, đó là vừa úy lạo về  mặt hôn nhân vừa xoa dịu về quyền lợi và quyền lực. Xong, như ta biết, việc xoa dịu ấy chỉ có tác dụng khi Đinh Tiên Hoàng còn sống. Mối thù “bắt nạt mẹ con ta” (chữ của Nhật Khánh) thực chất là hàm ý mối thù dòng họ và triều đại hơn nữa là mối nợ máu (con cháu họ Ngô đã bị giết bởi Đinh Tiên Hoàng trong trận Đỗ Động Giang).
[59] Còn một băn khoăn nữa là sau trận chiến thắng Đỗ Động Giang của Đinh Bộ Lĩnh thì Ngô Xương Xí đã hoàn toàn biến mất khỏi sử sách. Nguyễn Danh Phiệt đã bổ sung bằng các cứ liệu thần tích. Đây có thể coi là giả thuyết đáng lưu ý. Song chúng tôi không nêu lại ở đây.
[60] Nguyễn Danh Phiệt đã dựa trên khá nhiều thần tích để dựng lại quá trình chinh phục các sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh. Những nghiên cứu ấy cho rằng thần tích là một loại sử liệu. Tuy nhiên, văn bản học của thần tích địa phương là một vấn đề trước nay còn bỏ ngỏ.
[61] Xem thêm Trần Trọng Dương. 2009.  Khảo về Đại Cồ Việt- nước Việt- nước Phật giáo. Tc Hán Nôm số 02/2009.tr.53-75.
[62] Tạ Chí Đại Trường tỏ ra có lý khi lý giải như sau: “Sau khi binh lực Hoa Lư chiến thắng thì dùng phương tiện thông gia để hy vọng kéo dài sự liên kết…” [Tạ Chí Đại Trường. 2009. Bài sử khác cho Việt Nam (Sơ thảo). Văn Mới. USA. tr.128]
[63] Kinh tràng do Suy Thành Thuận Hóa, Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, Đặc tiến Kiểm hiệu Thái sư, Nam Việt Vương Đinh Khuông Liễn dựng năm 979 để cầu siêu linh hồn Thái Tử Hạng Lang Đại Đức Đính Noa Tăng Noa có câu giải thích cho hành động giết em như sau: “giành quan chăng nhường ghế, trước hạ thủ là hơn”(tranh quan bất nhượng vị, tiên hạ thủ vi lương). [Xem thêm các bản dịch trong Văn bia chùa Phật đời Lý. Nxb KHXH. Hà Nội.2011; Hà Văn Tấn. Chữ trên đá- chữ trên đồng- minh văn và lịch sử. Nxb KHXH. Hà Nội.2002]




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét