LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG THANH - NGHỆ - TĨNH
1.1. Tầm quan trọng của việc tìm hiểu lịch sử địa phương
- Nghiên cứu lịch sử địa phương để thấy
được những đóng góp cụ thể của nhân dân các địa phương trong quá trình phát
triển của lịch sử dân tộc.
- Nghiên cứu lịch sử địa phương góp
phần giáo dục các thế hệ sau tình yêu đối với quê hương đất nước, với dân tộc,
lòng kính trọng đối với tổ tiên và các thế hệ đi trước. Người học tự hào với
lịch sử quê hương qua đó cũng thấy được trách nhiệm của mình với địa phương,
với dân tộc, với tổ tiên và các thế hệ mai sau.
1.2. Khái lược lịch sử khu vực Bắc Trung Bộ
-
Đối tượng nghiên cứu của lịch sử Bắc Trung Bộ là các thời kỳ lịch sử của Bắc
Trung Bộ. Theo quan điểm lôgíc và quan điểm lịch sử, các thời kỳ này được phân
chia về mặt thời gian, tương ứng với các thời kỳ lịch sử dân tộc Việt Nam. Nội
dung nghiên cứu là các vấn đề chung về lịch sử Bắc Trung Bộ: sự kiện lịch sử,
nhân vật lịch sử...
-
Các thời kỳ lịch sử được phân chia thành các mốc quan trọng sau: Thời tiền sử
và sơ sử; Thời Bắc thuộc; Thời kỳ độc lập tự chủ (từ năm 905 đến năm 1858);
thời kỳ từ 1858 đến 1945; Thời kỳ từ năm 1945 đến nay.
-
Trong tiến trình của lịch sử dân tộc, khu vực Bắc Trung Bộ cùng với các khu vực
khác luôn diễn ra các sự kiện lịch sử tiêu biểu, mang ý nghĩa toàn dân tộc. Bên
cạnh đó, khu vực này cũng sản sinh ra những anh hùng dân tộc, những chiến sĩ
yêu nước và cách mạng có nhiều đóng góp cho lịch sử dân tộc. Trong đó, khu vực
Thanh - Nghệ - Tĩnh có phần đóng góp xứng đáng hơn cả.
1.3.
Thanh - Nghệ - Tĩnh trong tiến trình lịch sử dân tộc
1.3.1. Thanh - Nghệ - Tĩnh thời tiền
sử và sơ sử
* Thời tiền sử:
Ngay
từ rất sớm, người nguyên thuỷ đã xuất hiện và sinh sống ở địa bàn các tỉnh
Thanh - Nghệ - Tĩnh.
1.
Khảo cổ học đã phát hiện được nhiều công cụ chặt thô sơ của người vượn ở Núi Đọ, Quan Yên,
Núi Nuông (Thanh Hoá)... Trong đó, người vượn ở Núi Đọ dần dần đạt tới hình
thức xã hội tiền thị tộc (có niên đại cách ngày nay khoảng 30 đến 20 vạn năm).
Dấu
vết người nguyên thủy cũng được tìm thấy ở hang Thẩm Ồm (Quỳ Châu - Nghệ An).
Phát hiện dấu tích người vượn ở Thẩm Ồm chứng tỏ Nghệ An đã có mặt cùng cả nước
từ thuở bình minh xa xưa của lịch sử dân tộc.
2.
Dấu tích của văn hóa Sơn Vi, Hòa Bình, Bắc Sơn cũng được tìm thấy khá dày đặc ở đất
Thanh Hóa, Nghệ An. Điều này chứng tỏ quá trình định cư liên tục của người
nguyên thủy ở Thanh Hóa, Nghệ An từ thời đại đá cũ sang thời đại đá mới.
-
Văn hóa Sơn Vi (có niên đại cách ngày nay 30.000 đến 11.000 năm) được tìm thấy
ở hang núi Một (Cẩm Thủy - Thanh Hóa); mái đá Điều, mái đá Nước, hang Anh Rồ
(Bá Thước – Thanh Hóa); hang Con Moong (Thạch Thành – Thanh Hóa); đồi Dùng, đồi
Rạng (Thanh Chương – Nghệ An)…
-
Văn hóa Hòa Bình (có niên đại cách ngày nay 11.000 năm) được tìm thấy tại 31 di
chỉ ở khắp các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa và trong các hang núi đá vôi ở các
huyện Quế Phong, Con Cuông, Tương Dương, Tân Kỳ, Quỳ Châu (Nghệ An). Thời kỳ
này, con người đã biết nấu chín thức ăn, định cư một thời gian dài, sống trong
chế độ công xã thị tộc mẫu hệ, bắt đầu có trồng trọt và chăn nuôi.
-
Văn hóa Bắc Sơn (có niên đại cách ngày nay 8000 đến 7000 năm) được tìm thấy ở
mái đá Thạch Sơn, hang Điền Hạ… (Cẩm Thủy – Thanh Hóa); mái đá Điều (Bá Thước –
Thanh Hóa); hang Con Moong (Thạch Thành – Thanh Hóa). Cư dân nơi đây đã sử dụng
rất nhiều đồ gốm, nông nghiệp sơ khai đã bắt đầu xuất hiện.
-
Vào cuối thời kỳ đá mới, khảo cổ học đã phát hiện trên địa bàn Thanh – Nghệ –
Tĩnh có nhiều di chỉ hết sức quan trọng (có niên đại cách ngày nay 6000 đến
5000 năm): Đa Bút, núi Mông Cù (Vĩnh Lộc – Thanh Hóa); Quỳnh Văn (Nghệ An);
Trại Ổi (Quỳnh Hồng – Quỳnh Lưu – Nghệ An)… Tại các di chỉ này, người ta phát
hiện các công cụ bằng xương, bằng sừng, có vết tích chài lưới… chứng tỏ người
nguyên thủy thời kỳ này đã vươn mạnh mẽ xuống đồng bằng và ven biển.
3.
Sơ kỳ thời đại đồ đồng:
Sau
quá trình lâu dài đấu tranh với thiên nhiên để sinh tồn và phát triển, cư dân
trên lãnh thổ nước ta bước vào thời đại đồ đồng, theo đó, trên địa bàn Thanh –
Nghệ – Tĩnh, các nhà khoa học cũng đã tìm thấy được những bằng chứng thuyết
phục về thời kỳ này ở đây.
Tại
lưu vực sông Mã, khảo cổ học đã phát hiện được các nơi cư trú của các bộ lạc sơ
kỳ thời đại kim khí. Cư dân ở đây tụ cư ở vùng cửa suối dọc đôi bờ sông Mã kéo
dài khoảng 10 km từ xã Mường Lầm đến Nà Nghìn. Tại các tụ điểm cư dân này, các
nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều công cụ đá mài, đồ gốm với những hoa văn
phong phú. Đặc biệt ở Quỳ Chữ (xã Hoằng Quỳ, huyện Hoằng Hóa) là di chỉ có
nhiều chiến cụ rìu cân, rìu xéo, mũi giáo, mũi lao và mũi tên bằng đồng có
trang trí bằng hoa văn đúc nổi, có cả các dụng cụ để nấu và đúc đồng…
Tại
lưu vực sông Lam, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được một số di tích thuộc sơ
kỳ thời đại đồng thau như nhóm di tích Đồi Dền (Tương Dương – Nghệ An); Trại Ổi (Quỳnh Lưu – Nghệ An); lèn Hai Vai
(Diễn Châu – Nghệ An); Rú Trăn (Nam Đàn – Nghệ An)… Các di tích văn hóa đồ đồng
trên đây thuộc giai đoạn tiền Đông Sơn là những bước chuẩn bị để tiến tới văn
hóa Đông Sơn. Nó bắt nguồn trực tiếp của văn hóa thời đại đồ đá mới trước đó và
mang những sắc thái riêng của các bộ lạc hay nhóm bộ lạc vùng sông Lam. Nó vừa
phân biệt với những dòng văn hóa tiền Đông Sơn thuộc lưu vực sông Hồng (Phùng
Nguyên - Đồng Đậu – Gò Mun), sông Mã và những vùng khác của đất nước, vừa thể
hiện những mối quan hệ tiếp xúc giao lưu văn hóa và trao đổi sản phẩm giữa Nghệ
Tĩnh với các địa bàn trên. Một số đồ gốm ở Trại Ổi, lèn Hai Vai có phong cách
và đồ án trang trí giống đồ gốm Hoa Lộc ở Thanh Hóa. Gốm Đồi Dền có một số hình
trang trí gần gũi với gốm Phùng Nguyên ở lưu vực sông Hồng. Một số đồ gốm Rú
Trăn cũng tìm thấy ở Thanh Hóa qua trao đổi. Quá trình tiếp xúc giao lưu văn
hóa đó cũng là quá trình xích lại gần nhau giữa các nhóm bộ lạc và các khu vực
trong quá trình tiến tới một nền văn hóa thống nhất – văn hóa Đông Sơn.
Có
thể nói, cùng với lưu vực sông Hồng thì lưu vực sông Mã, sông Lam là một trong
những dòng chảy văn hóa dẫn đến văn hóa Đông Sơn, góp phần tạo nên văn hóa Đông
Sơn sau này
* Thời sơ sử:
Niên
đại: Từ thế kỷ VII TCN đến thế kỷ II TCN. Thời Hùng Vương, Thanh Hoá thuộc bộ
Cửu Chân, Nghệ An thuộc bộ Hoài Hoan và phần bắc bộ Cửu Đức, Hà Tĩnh thuộc bộ
Cửu Đức của nước Văn Lang.
Di
chỉ khảo cổ Đông Sơn (nay thuộc phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa). Lần đầu
tiên ở Việt Nam, có một nền văn hóa bao trùm trên một địa bàn rộng lớn từ Hoàng
Liên Sơn đến miền Nam Việt Nam.
Di
tích văn hoá Đông Sơn tập trung đậm đặc ở lưu vực các con sông: sông Hồng, sông
Mã, sông Cả. Có 379 di tích, trong đó Thanh Hoá có 104 di tích, Nghệ An có 25
di tích...
Các
di tích văn hóa Đông Sơn ở Thanh Hóa phân bố rộng từ vùng núi đến vùng đồng
bằng thuộc các huyện: Đông Sơn, Hoằng Hóa, Hậu Lộc, Quảng Xương, Nông Cống, Thọ
Xuân, Thiệu Hóa, Yên Định, Vĩnh Lộc, Hà Trung…
Trên
đất Nghệ An và Hà Tĩnh cũng đã phát hiện được rất nhiều di tích văn hóa Đông
Sơn mà tiêu biểu nhất là Làng Vạc (Nghĩa Đàn – Nghệ An), Đồng Mỏm (Diễn Châu –
Nghệ An), Xuân An (Nghi Xuân – Hà Tĩnh)…
Vào
giai đoạn Đông Sơn, nghề đúc đồng đạt đến mức cực thịnh. Ở Làng Vạc tìm thấy
khuôn đúc rìu và đúc dao găm bằng sa thạch. Ở Đồng Mỏm người ta tìm thấy môi
đúc đồng bằng đất nung còn dính xỉ đồng. Đồ đồng Đông Sơn gồm đủ bộ từ công cụ,
nhạc cụ đến chiến cụ. Trên các đồ đồng này đều có khắc chạm đúc nổi các hoa văn
trang trí, đặc biệt là các hình vẽ mô tả sinh hoạt, đời sống văn hóa tĩn ngưỡng
của người Việt thời bấy giờ. Người thợ đúc đồng thời kỳ này đã chế tạo được
nhiều loại công cụ sản xuất bằng đồng như lưỡi cày, lưỡi cuốc, xẻng, thuổng,
rìu, đục, mũi nhon…; nhiều loại đồ đựng bằng đồng như thạp, thố, âu, chậu,
sành; những đồ dùng đẹp như khóa thắt lưng, môi bằng đồng; nhiều thứ vũ khí
bằng đồng như dao găm, giáo, mũi lao, mũi tên…
Vào
thời kỳ này, người Đông Sơn trên địa bàn Thanh - Nghệ - Tĩnh không những phải
đấu tranh với thiên nhiên để sinh tồn mà còn thường xuyên đối phó với nạn ngoại
xâm. Do vậy, trong một số di chỉ có niên đại Đông Sơn, tỉ lệ vũ khí trong tổng
số hiện vật khá cao: Đông Sơn có 519 vũ khí trong số 1026 hiện vật; Làng Vạc có
120 vũ khí trong số 475 hiện vật. Nhìn chung, tỉ lệ vũ khí lên tới trên 50%
tổng số hiện vật.
Nghề
luyện sắt cũng đã xuất hiện và có những bước phát triển đáng kể trong giai đoạn
văn hóa Đông Sơn. Sự phát triển của nghề luyện kim đã thúc đẩy sự phát triển
của toàn bộ nền kinh tế và dẫn đến những chuyển biến sâu xa trong đời sống xã
hội.
Trong
các nghề thủ công, nghề làm đồ đá dần dần mất đi vai trò của nó. Nghề làm đồ
gốm, nghề kéo sợi dệt vải tiếp tục phát triển, cung cấp các loại đồ đựng, đồ
dùng trong sinh hoạt và đồ may mặc cho con người. Cơ sở kinh tế chủ yếu là nông
nghiệp trồng lúa nước có nhiều tiến bộ quan trọng. Những lưỡi cày đồng đã thay
thế dần những chiếc cuốc đá và nền nông nghiệp dùng cuốc đã chuyển dần sang
nông nghiệp dùng cày. Cây lúa trồng lúc bấy giờ gồm cả lúa tẻ, lúa nếp. Cùng
kết hợp với nông nghiệp trồng lúa, có các nghề hái lượm, săn bắn, đánh cá, chăn
nuôi. Trâu, bò, lợn, gà đã trở thành gia súc quen thuộc của con người.
Những
tiến bộ về kỹ thuật, những thành tựu về kinh tế đã làm cho đời sống vật chất và
tinh thần của con người ngày càng phong phú hơn. Tượng phụ nữ trên cán dao găm,
hình người chạm khắc trên trống đồng, những đồ án trang trí trên đồ đồng, đồ
gốm, hình dáng của các công cụ, vũ khí chứng tỏ một bước phát triển cao của tư
duy, thẩm mĩ và nghệ thuật tạo hình. Công xã thị tộc tan rã nhường chỗ cho công
xã nông thôn mà trong tiếng Việt cổ gọi là kẻ, chạ, chiềng. Con người sống gắn
bó trong những quan hệ cộng đồng của xóm làng, họ hàng với những hội mùa hàng
năm rộn ràng tiếng trống đồng, tiếng chiêng, tiếng lục lạc, say sưa trong điệu
múa và những sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp lúa nước.
ð Kết luận:
- Người Đông Sơn đã chiếm lĩnh các
đồng bằng, dọc lưu vực các con sông lớn, ngã ba sông, vùng trung du, miền núi
và hải đảo. Cư dân Đông Sơn sống tập trung thành từng làng trù mật, rộng lớn.
- Công nghệ luyện kim đạt đến đỉnh
cao, đúc nhiều đồ đồng: trống, thạp, thố, dao găm, mũi tên, cày... Thành thục
kỹ thuật làm khuôn, tạo vật pha chế hợp kim và bước đầu phát triển nghề luyện
sắt.
- Nghề nông nghiệp lúa nước phát
triển rộng rãi, nghề làm vườn và chăn nuôi gia súc. Nông nghiệp dùng cày kim
loại và dùng sức kéo của động vật.
- Nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương
là Nhà nước đầu tiên của Việt Nam và Đông Nam á, có tổ chức quân đội, trang bị
nhiều loại vũ khí, cung nỏ. Kinh đô Cổ Loa đã có thành, hào bao bọc xung quanh.
Có thể nói, lưu vực sông Mã, sông Cả
là một trong những trung tâm của văn hóa Đông Sơn, đã góp phần xứng đáng và là
một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của đất nước Văn Lang - Âu Lạc.
1.3.2.
Thanh - Nghệ - Tĩnh thời Bắc thuộc
a. Chính sách đô hộ và đồng hoá của
phong kiến phương Bắc
-
Sau khi chiếm được Âu Lạc, năm 179 TCN, Triệu Đà chia nước ta thành 2 quận:
Giao Chỉ (vùng châu thổ Bắc Bộ) và Cửu Chân (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh). Mục
đích nhằm biến nước ta thành quận huyện của Trung Quốc. Năm 111 TCN, nhà Hán
đánh bại Triệu Đà, đô hộ nước Nam.
Chính
sách của nhà Hán là chế độ lạc tướng, người Việt quản lý ở cấp huyện. Sau khởi
nghĩa Hai Bà Trưng, đưa quan lại nhà Hán sang cai trị đến cấp huyện.
Năm
905, Khúc Thừa Dụ đánh thắng nhà Đường, chấm dưt 1000 năm Bắc thuộc trên đất
nước ta và vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh.
-
Chính sách đồng hoá trên mọi phương diện:
+/.
Di dân người Hán đến ở lẫn với người Việt để đồng hoá, lai máu, thay đổi phong
tục tập quán của người Việt. Các quan lại nhà Hán (Nhâm Diên, Sỹ Nhiếp, Tích
Quang...) đã tổ chức đám cưới cho người Việt và người Hán, con cái của họ sau
lấy họ của những người này. Tên họ của người Việt cũng ảnh hưởng của Trung Hoa
bắt đầu từ đây.
+/.
Nho giáo được truyền vào nước ta, là hệ tư tưởng của bộ máy cai trị phong kiến
Trung Hoa. Về sau, các triều đại phong kiến nước ta vẫn lấy hệ tư tưởng Nho
giáo để điều hành đất nước.
+/.
Chữ Hán và văn học Trung Quốc cũng được truyền vào nước ta. Về sau nhân dân ta
trên cơ sở 214 bộ thủ chữ Hán đã sáng tạo ra chữ Nôm, là thứ chữ riêng của
người Việt.
b. Tên gọi:
Xứ
Thanh là một cách gọi dân gian chỉ tỉnh Thanh Hoá, là một thực thể địa lý tự
nhiên và văn hoá, khiến Pierre Pasquier - viên Toàn quyền Đông Dương người Pháp
trước kia coi Thanh Hoá không chỉ là một tỉnh mà là một xứ (pays). Cái nhìn địa – văn hoá này đã được ông cha ta từ xa xưa
thấu tỏ, do vậy, dù trải qua bao nhiêu triều đại, qua bao cuộc sát nhập và phân
chia thì xứ Thanh vẫn là xứ Thanh, Thanh Hoá vẫn là Thanh Hoá.
Trước
thời Hán, Thanh Hoá thuộc quận Cửu Chân, thời Hán quận Cửu Chân thuộc bộ Giao
Chỉ. Thời nhà Lương đổi Cửu Chân thành Ái Châu.
Xứ
Nghệ là một cách gọi dân gian giống như xứ Huế, xứ Thanh để chỉ vùng đất thuộc
hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Xứ Nghệ còn có tên gọi khác là Nghệ Tĩnh
(đây là cách gọi rút ngắn từ hai tên riêng của hai tỉnh là Nghệ An và Hà Tĩnh.
Khác với tên xứ Nghệ, tên Nghệ Tĩnh không chỉ là cách gọi thông thường, mà có
thời kỳ được làm tên gọi chính thức của một tỉnh – tỉnh Nghệ Tĩnh, do sự sát
nhập hai tỉnh Nghệ An và Hà Tình làm một, tồn tại từ năm 1975 đến 1991.
Thời
nhà Hán cai trị nước ta, vùng đất Nghệ An và Hà Tĩnh được coi là Hàm Hoan, coi
đó như là một huyện của quận Cửu Chân (bao gồm cả Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh
ngày nay). Đến thế kỷ III, người Hán đổi tên Hàm Hoan thành Cửu Đức, đến thời
đường đổi thành Hoan Châu. Đến cuối thế kỷ VIII, đô hộ nhà Đường lại tách Hoan
Châu thành hai phần, phần Bắc gọi là Diễn Châu, phần Nam vẫn giữ tên cũ là Hoan
Châu.
Suốt
thời kỳ Bắc thuộc, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân các tỉnh Thanh - Nghệ -
Tĩnh cũng chịu sự bóc lột, vơ vét tàn bạo và chính sách đông hoá dân tộc, khủng
bố, đàn áp tàn bạo của các triều đại phong kiến phương Bắc nhằm biến nước ta
thành quận, huyện của chúng, biến dân tộc Việt thành dân tộc Hán, người Việt
thành người Hán.
c. Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu của
nhân dân:
*. Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu năm
248.
Năm
248, một cuộc khởi nghĩa lớn của nhân dân Cửu Chân đã bùng nổ. Lãnh tụ của
nghĩa quân là Bà Triệu tức Triệu Thị Trinh. Bà Triệu quê ở huyện Nông Cống
(tỉnh Thanh Hóa), là người phụ nữ có chí khí hơn người, có hoài bão đánh giặc
ngoại xâm giành lại độc lập cho đất nước. Đêm đêm, bà thường cùng anh là Triệu
Quốc Đạt vào rừng tập luyện quân sĩ, chuẩn bị khởi nghĩa.
Năm
vừa tròn 19 tuổi, Triệu Thị Trinh cùng anh hô hào nhân dân trong vùng nổi dậy.
Cuộc khởi nghĩa được dân chúng Cửu Chân hưởng ứng nhiệt liệt và nhanh chóng lan
tỏa ra quận Giao Chỉ. Nghĩa quân chiến đấu liên tiếp nhiều trận, thế lực ngày
càng mạnh, quân số có tới hàng vạn người. Nhà Ngô lo sợ, phải điều động hơn
8000 quân do An Nam hiệu úy, thứ giả Giao Châu là Lục Dận chỉ huy sang đàn áp.
Triệu Quốc Đạt bị hi sinh trong trận chiến đấu với quân Ngô, Triệu Thị Trinh
thay anh chỉ huy nghĩa quân chiến đấu rất anh dũng trong nhiều trận, nhưng lực
lượng bị tiêu diệt dần, liệu thế không chiến đấu nổi, bà đã chạy lên núi Tùng
Sơn tự vẫn.
Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại, nhưng
đã khẳng định tinh thần yêu nước, bất khuất sáng ngời của nhân dân Thanh Hóa
nói riêng và nhân dân ta nói chung từ thời Trung nữ vương. Nó đánh dấu bước
trưởng thành của phong trào đấu tranh vũ trang giành độc lập của nhân dân ta
lúc bấy giờ.
Tùng Sơn nắng
quyện mây trời
Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh
Sử
sách đã ghi lại rằng: Bà mặc áo giáp vàng, cài trâm vàng, đi guốc ngà, cưỡi voi
trận, nói lời khí phách: “Ta chỉ muốn
cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá kình biển đông, đánh đuổi giặc
Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chớ không chịu khom lưng làm tỳ
thiếp...”.
*. Mai Thúc Loan với khởi nghĩa Hoan
Châu năm 722.
-
Nguyên nhân: Từ nửa cuối thế kỷ VII, dưới sự cai trị hà khắc và tham lam của
viên An Nam đô hộ Lưu Diên Hựu, nhân dân nhiều nơi đã nổi dậy khởi nghĩa. Tuy
nhiên, vào đầu thế kỷ VIII, bọn quan lại nhà Đường lại càng ra sức hoành hành,
cướp ruộng đất, hạch sách nhân dân. Ách lao dịch nặng nề, cống nạp phiền nhiễu.
Nhân dân hàng năm còn phải vận chuyển nhiều thức ngon, vật lạ cống nạp cho nhà
Đường. Điều này làm cho nhân dân ta rất căm phẫn, đó là lí do dẫn đến cuộc khởi
nghĩa của Mai Thúc Loan.
Mai
Thúc Loan người Thiên Lộc (Hà Tĩnh), sau theo mẹ đến trú ngụ ở huyện Nam Đàn
(Nghệ An) làm nghề đốn củi kiếm sống, rồi ở đợ cho nhà giàu. Ông là một thanh
niên có sức khỏe, nhanh nhẹn, da đen nên sau này nhân dân gọi là Mai Hắc Đế
(vua Đen).
Năm
713, Mai Thúc Loan hiệu triệu dân phu nổi dậy khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa được
nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt. Nhiều nghĩa sĩ, nhân tài khắp vùng Thanh, Nghệ,
Tĩnh đã kéo về tụ nghĩa dưới cờ của Mai Thúc Loan. Nhiều quân lính thuộc các
quốc gia Chămpa, Chân Lạp, Kim Lân cùng với 32 châu quanh vùng đã liên kết với
nghĩa quân. Mai Thúc Loan tự xưng là hoàng đế, xây thành trên núi và lấy vùng
Sa Nam hiểm yếu làm căn cứ chống giặc.
Nhà
Đường được tin đã cử Dương Tư Húc cùng An Nam đô hộ phủ là Quang Sở Khách đem
10 vạn quân tiến sang đàn áp. Nghĩa quân sau nhiều trận chiến đấu đã thất bại,
tan rã, chạy vào rừng, Mai Thúc Loan chết ở đó, kết thúc một cuộc khởi nghĩa
khá tiêu biểu của nhân dân ta chống lại nhà Đường ở nửa đầu thế kỷ VIII.
1.3.3.
Thanh - Nghệ - Tĩnh trong thời kỳ độc lập tự chủ (từ 905 đến 1858)
-
Tên gọi: Bắt đầu từ thời phong kiến độc lập tự chủ, Thanh Hoá vẫn thuộc Ái
Châu. Đến thời Lý, đổi thành phủ Thanh Hoá, danh xưng Thanh Hoá bắt đầu có từ
đó (Thanh: trong sáng; Hoá: biến hoá). Sau này, trải qua các triều đại, có lúc
Thanh Hoá được gọi là phủ, trấn, lộ, trại, thừa tuyên, thậm chí, cái tên Thanh
Hoá có từ thời Lý cũng có lúc đổi thành Thanh Đô, Tây Đô, Thanh Hoa. Năm 1802,
gọi là trấn Thanh Hoá, năm 1831, đổi trấn thành tỉnh, bắt đầu gọi là tỉnh Thanh
Hoá (Hoa: tinh hoa). Năm 1841, lại đổi thành tỉnh Thanh Hoá.
Thời
kỳ đầu của phong kiến tự chủ Đại Việt vẫn dùng địa danh Hoan Châu và Diễn Châu
để chỉ vùng đất Nghệ An và Hà Tĩnh. Tuy nhiên, đến thời Lý Thái Tông (1033),
nhà nước gộp Hoan Châu và Diễn Châu thành một đơn vị hành chính, đặt tên mới là
châu Nghệ An, cái tên Nghệ An chính thức ra đời từ thời nhà Lý, thế kỷ XI. Đến
năm 1469, Lê Thánh Tông gọi vùng đất này là thừa tuyên Nghệ An, đến thời Gia
Long, đổi thừa tuyên Nghệ An thành trấn Nghệ An. Thời Minh Mạng tách trấn Nghệ
An thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, tên gọi hai tỉnh này tồn tại cho đến năm
1975.
-
Các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm tiêu biểu của nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh:
a.
Thanh - Nghệ - Tĩnh trong khởi nghĩa Lam Sơn:
Lam
Sơn (Thọ Xuân - Thanh Hóa) lúc bấy giờ theo tên Nôm là làng Cham thuộc huyện
Lương Giang, phủ Thanh Hóa. Lam Sơn là quê hương của người anh hùng Lê Lợi và
là căn cứ buổi đầu của cuộc kháng chiến chống quân Minh do Lê Lợi lãnh đạo.
Năm
1416, Lê Lợi và 18 người đã tổ chức Hội thề Lũng Nhai (làng Mé, cách Lam Sơn
10km), nêu cao quyết tâm đoàn kết đánh giặc Minh. Đầu năm 1418, Lê Lợi dựng cờ
khởi nghĩa, tự xưng là Bình Định vương, truyền Hịch kêu gọi nhân dân đứng lên
cứu nước.
Bình
Định vương cùng nghĩa quân đã chiến đấu ở Thanh Hóa 6 năm. Trong 6 năm đầu gian
khó ấy, tại Thanh Hóa đã diễn ra các trận đánh lớn: Lam Sơn, Mường Một (Thường
Xuân); Mường Chính, Bến Bổng (vùng thượng du sông Âm); Ba Lẫm (Bá Thước); Kình
Động (Bá Thước); Úng Ải (Bá Thước); Sách Khôi (Bá Thước); Đa Càng (Thọ Xuân).
Trong đó, có trận đánh phía địch có 10 vạn tên như ở Kình Động. Mùa đông năm
1424, Bình Định vương tiến quân vào Nghệ An theo kế sách của Nguyễn Chích.
Như
vậy, Thanh Hóa là địa bàn hoạt động đầu tiên của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc
kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Địa bàn này diễn ra những trận chiến đấu
quyết liệt của nghĩa quân với quân Minh. Tuy nhiên, với tài năng, uy tín của
người đứng đầu và lòng yêu nước của nhân dân đã đưa cuộc khởi nghĩa vượt qua
thời kỳ đầu đầy gian khó, củng cố căn cứ địa, không cho giặc đàn áp, dập tắt
cuộc khởi nghĩa.
Vượt
qua thời kỳ đầu củng cố căn cứ địa, năm 1424, nghĩa quân chuyển sang giai đoạn
phát triển, theo kế của Nguyễn Chích, tiến xuống vùng đồng bằng Nghệ An.
Theo
đúng kế hoạch, tháng 10 - 1424, nghĩa quân đã tiến công thành Trà Lân (Tương
Dương, Con Cuông - Nghệ An) do ngụy quan Cầm Bành với hơn 1000 quân trấn giữ.
Sau 2 tháng bị bao vây, Cầm Bành phải đầu hàng. Chiếm được thành Trà Lân, nghĩa
quân đã khai thông và kiểm soát được con đường từ miền núi xuống vùng đồng
bằng.
Sau
khi diệt địch trong trận phục kích ở Khả Lưu, Bồ Ải (Anh Sơn), nghĩa quân tiến
xuống giải phóng toàn bộ các châu, huyện của Nghệ An, đồng thời vây hãm chặt
thành Nghệ An trong nhiều tháng. Thành này do tướng giặc Trần Trí và sau là
Phương Chính trấn giữ. Nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh nhất tề nổi dậy tham gia,
hưởng ứng cuộc khởi nghĩa, tự nguyện và hăng hái góp phần vào sự nghiệp cứu
nước. Nghĩa quân đến đâu, nhân dân ở đó đứng lên gia nhập nghĩa quân, tiếp thêm
lương thực và góp sức cùng nghĩa quân giải phóng các châu, huyện. Những lực
lượng chống quân Minh đang hoạt động trong vùng đều gia nhập vào hàng ngũ nghĩa
quân Lam Sơn như Phan Liêu, Lộ Văn Luật (ở miền tây Hà Tĩnh), Nguyễn Biên (Cẩm
Xuyên – Hà Tĩnh), Nguyễn Vĩnh Lộc ở Trang Niên (Yên Thành)…
Có
nơi, nhân dân còn nổi dậy tự vũ trang để phối hợp với nghĩa quân giải phóng quê
hương, tiêu biểu là trường hợp của Nguyễn Tuấn Thiện ở Đỗ Gia (Hương Sơn – Hà
Tĩnh). Từ các xóm làng miền xuôi đến các bản mường miền núi, các tầng lớp xã
hội và thành phần dân tộc đều quy tụ lại dưới lá cờ cứu nước của Bình Định
vương Lê Lợi.
Trong
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, toàn phủ Nghệ An đã trở thành căn cứ của cuộc khởi
nghĩa. Chỉ huy sở của Lê Lợi lúc đầu đặt ở động Tiên Hoa (Hương Sơn) sau dời về
thành Lục Niên trên núi Thiên Nhẫn. Tại đây, bộ tham mưu của nghĩa quân chỉ đạo
quân, dân hết lòng xây dựng, bảo vệ căn cứ địa và chuẩn bị mọi mặt để đưa cuộc
chiến tranh yêu nước đến toàn thắng.
Từ
phủ Nghệ An, tháng 6 - 1425, nghĩa quân tiến ra giải phóng phủ Diễn Châu, căn
cứ địa của cuộc kháng chiến được mở rộng trên quy mô lớn, nhờ đó, lực lượng của
nghĩa quân trưởng thành về mọi mặt và cuộc khởi nghĩa phát triển thành cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc mang tính nhân dân sâu rộng, có căn cứ địa vững
chắc, hùng hậu.
Với
“đất đứng chân” của Nghệ An - Hà Tĩnh, năm 1425, nghĩa quân Lam Sơn tiến ra
giải phóng Thanh Hóa, tiến vào giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa, rồi năm 1426, mở
cuộc tiến công ra Bắc. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi lãnh đạo
phát triển rộng ra quy mô cả nước và giành thắng lợi quyết định vào cuối năm
1427 với chiến thắng Chi Lăng, Xương Giang vang dội.
Như
vậy, trong thắng lợi huy hoàng của sự nghiệp “bình Ngô” của dân tộc đầu thế kỷ
XV, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh đã thể hiện rõ là một địa bàn chiến lược quan
trọng. Nhân dân các tỉnh nơi đây đã có những đóng góp quyết định cho cuộc khởi
nghĩa ngay từ những ngày đầu đầy gian khó cho đến thắng lợi cuối cùng.
1.3.4.
Thanh - Nghệ - Tĩnh trong phong trào giải phóng dân tộc từ 1858 - 1945:
a.
Thanh - Nghệ - Tĩnh trong Phong trào Cần Vương:
Ngày
1 - 9 - 1858, thực dân Pháp chính thức nổ súng xâm lược Việt Nam, trong khi đó,
triều Nguyễn lại đang chìm vào khủng hoảng, suy vong. Với ưu thế hơn hẳn của
một nước tư bản đang trên đà phát triển, thực dân Pháp đã lấn át, gặm dần, nuốt
trỏng Việt Nam, biến Việt Nam từ một nước độc lập, tự chủ thành một nước thuộc
địa vẫn còn tàn dư phong kiến.
Hưởng
ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, văn thân, sĩ phu và nhân dân Nghệ Tĩnh đã
đứng dậy phò vua , cứu nước. Chính nơi đây là địa bàn quan trọng nhất, diễn ra
các cuộc khởi nghĩa quyết liệt nhất trong phong trào Cần Vương chống Pháp cuối
thế kỷ XIX.
*. Khởi nghĩa Hương Khê:
Khởi
nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn nhất và kéo dài nhất trong
phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX. Địa bàn hoạt động của nghĩa quân bao gồm
4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, trong đó, địa bàn chính là
Nghệ An, Hà Tĩnh. Cuộc khởi nghĩa phát triển qua hai thời kì: từ 1885 đến 1888
là thời kỳ xây dựng và tổ chức lực lượng; từ 1889 đến 1895 là những năm chiến
đấu của nghĩa quân.
Sau
khi vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương (7 – 1885), ở Hà Tĩnh đã bùng nổ nhiều
phong trào đấu tranh vũ trang.
Cuộc
khởi nghĩa đầu tiên là của Lê Ninh ở Trung Lễ (Đức Trung - Đức Thọ). Cuối năm
1885, Lê Ninh tổ chức tấn công vào thành Hà Tĩnh, giết chết tên Bố chánh Lê
Đại. Sau đó, nghĩa quân kéo lên Hương Khê, vừa để tránh sự truy nã, vây hãm của
giặc Pháp, vừa nhằm phối hợp tác chiến với đội quân của Phan Đình Phùng. Nhưng
không may, đến giữa năm 1886, Lê Ninh bị bệnh mất, em ông là Lê Trực đã thay
ông, sau này trở thành một thủ lĩnh của nghĩa quân Hương Khê.
Cùng
với khởi nghĩa của Lê Ninh, còn có các cuộc khởi nghĩa khác như: Khởi nghĩa của
Cao Thắng, Cao Nữu ở Hàm Lại, Sơn Lễ (Hương Sơn); Khởi nghĩa của Nguyễn Trạch
và Nguyễn Chanh ở Can Lộc; Khởi nghĩa của Ngô Quảng và Hà Văn Mỹ ở Nghi Xuân;
Khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Thuận ở Thạch Hà; Ở làng Đông Thái (Đức Thọ) có đội
quân Phan Đình Phùng.
Tại
Nghệ An, cũng xuất hiện nhiều lực lượng chống Pháp, tiêu biểu nhất là đội quân
của Nguyễn Xuân Ôn và Lê Doãn Nhạ. Cuộc khởi nghĩa của hai ông tồn tại đến năm
1887.
Trên
cơ sở các cuộc khởi nghĩa đó, Phan Đình Phùng đã tập hợp và phát triển thành
một phong trào có quy mô rộng lớn khắp bốn tỉnh bắc Trung Kì, với địa bàn chính
ở Hương Khê (Hà Tĩnh), tồn tại suốt 10 năm liên tục.
Vượt
qua thời kỳ khó khăn ban đầu, lực lượng của nghĩa quân sau một thời gian đã
phát triển tới hàng ngàn người. Lực lượng nghĩa quân phân bố thành 15 quân thứ,
tuân theo những quy định về kỷ luật do cụ Phan thảo ra. Đạiu bản doanh của Phan
Đình Phùng đặt tại khu Ngàn Trươi, Vụ Quang. Khởi nghĩa Hương Khê trở thành nơi
hội tụ của một số lực lượng vũ trang chống Pháp ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An,
Hà Tĩnh, Quảng Bình.
Các
đồn giặc ở tỉnh lị Hà Tĩnh, Trường Lưu (Can Lộc), Nầm (Hương Sơn), Linh Cảm
(Đức Thọ), Voi (Kỳ Anh)… bị nghĩa quân tấn công liên tiếp.
Lo sợ trước sự phát triển của phong
trào, thực dân Pháp đã tập trung lực lượng, mở nhiều cuộc tấn công ác liệt vào
trung tâm căn cứ và tìm cách cắt đứt liên lạc của nghĩa quân với nhân dân vùng
xuôi.
Để phá thế bị bao vây, cuối năm 1893,
Cao Thắng đề nghị với Phan Đình Phùng một kế hoạch táo bạo đánh thẳng vào Nghệ
An. Trên đường tiến quân, nghĩa quân đã tổ chức đánh chiếm đồn Nu ở Thanh
Chương. Trong trận này, Cao Thắng bị thương nặng và hi sinh. Từ đây, khởi nghĩa
Hương Khê ngày càng khó khăn.
Bước vào những năm 90 của thế kỷ XIX,
giặc Pháp hầu như đã dập tắt được những cuộc khởi nghĩa ở các nơi khác nên rảnh
tay đối phó với nghĩa quân Phan Đình Phùng. Chúng kết hợp nhiệu thủ đoạn, vừa
tấn công quân sự, vừa ra sức dụ hàng, ly gián nhân dân với nghĩa quân. Tuy
nhiên, đêm đêm, các đội tiếp tế vẫn bí mật chuyển lương thảo lên căn cứ Ngàn
Trươi, Vụ Quang. Giữa vòng vây của giặc, vượt qua muôn vàn gian khổ, hi sinh,
nghĩa quân đã chiến đấu oanh liệt, làm nên những chiến thắng vang dội ở Đại
Hàm, Cây Khế và nhất là trận Vụ Quang nổi tiếng.
Tháng 8 – 1895, thực dân Pháp cấu kết
với phong kiến Nam triều, phái Nguyễn Thân với danh nghĩa Khâm sai tiết chế,
kéo thêm 3000 lính khố xanh ra phối hợp với lực lượng của Pháp ở Hà Tĩnh khép
chặt vòng vây, chặn đường tiếp tế, tìm mọi thủ đoạn tiêu diệt nghĩa quân.
Trong một trận giao chiến với giặc,
Phan Đình Phùng bị thương nặng. Ngày 28 - 12 - 1895, ông đã qua đời tại đại bản
doanh Núi Quạt (Vụ Quang). Khởi nghĩa Hương Khê tiếp tục kéo dài thêm một thời
gian, sang đến năm 1896 mới hoàn toàn chấm dứt.
Khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi
nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương chống Pháp của nhân dân ta cuối
thế kỷ XIX.
*.
Khởi nghĩa Ba Đình:
Khởi nghĩa Ba Đình dưới sự chỉ huy
của Đinh Công Tráng, Phạm Bành, Hoàng Bật Đạt và một số tướng lĩnh khác.
Căn
cứ Ba Đình cách huyện lị Nga Sơn 4 km, phía tây bắc giáp huyện Hà Trung, được
xây dựng trên địa bàn ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh và Mỹ Khê. Vào mùa mưa,
căn cứ này trông như một hòn đảo nổi giữa cánh đồng nước mênh mông, tách biệt
với các làng khác.
Căn cứ này gọi là Ba Đình vì mỗi làng có
một cái đình, từ làng này có thể nhìn thấy đình của hai làng kia. Để chuẩn bị
chiến đấu lâu dài, Đinh Công Tráng đã cho bao bọc xung quanh căn cứ lũy tre dày
đặc và một hệ thống hào rộng, cắm đầy chông tre. Ở trong là một lớp thành đất
cao 3 m, chân rộng từ 8 đến 10 m. Trên mặt thành, nghĩa quân đặt các rọ tre
chứa đất nhào rơm xếp vững chắc có những khe hở làm lỗ châu mai sẵn sàng chiến
đấu. Thành rộng 400 m, dài 1.200 m. Phía trong thành có hệ thống giao thông hào
dùng để vận chuyển lương thực và vận động khi chiến đấu. Tại các nơi xung yếu
đều có công sự vững chắc. Các hầm chiến đấu được xây dựng theo hình chữ “chi”,
nhằm hạn chế thương vong. Ở mỗi làng, tại vị trí ngôi đình được xây dựng một
đồn đóng quân: Thượng Thọ có đồn Thượng; Mậu Thịnh có đồn Trung; Mỹ Khê có
đồn Hạ. Ba đồn này có thể hỗ trợ tác chiến cho nhau khi bị tấn công, đồng thời
cũng có thể chiến đấu độc lập.
Có
thể nói rằng, căn cứ Ba Đình có vị trí tiêu biểu nhất, là một chiến tuyến phòng
ngự quy mô nhất thời kì Cần Vương cuối thế kỷ XIX. Ngoài Ba Đình còn có các
căn cứ hỗ trợ: Căn cứ Phi Lai của Cao Điển, căn cứ Quảng Hóa của Trần Xuân
Soạn, căn cứ Mã Cao của Hà Văn Mao.
Lực
lượng nghĩa quân Ba Đình gồm khoảng 300 người, tuyển từ ba làng và các vùng
Thanh Hóa, bao gồm cả người Kinh, Thái, Mường. Nghĩa quân có 10 toán.
Về
vũ khí, nghĩa quân tự trang bị bằng súng hỏa mai, giáo, mác, cung, nỏ.
Nghĩa
quân của Đinh Công Tráng đã đánh nhiều trận giành thắng lợi. Năm 1886, nghĩa
quân liên tiếp tấn công các phủ, thành, huyện lị, chặn đánh các đoàn xe, các
toán quân lẻ, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Ngày 12 – 3 – 1886, lợi dụng
phiên chợ, nghĩa quân đã tấn công Tòa Công sứ Thanh Hóa.
Từ
ngày 18 – 12 – 1886 đến ngày 20 – 1 – 1887, quân Pháp đã điều 76 sĩ quan và
3.500 quân vây hãm và tiến đánh Ba Đình. Quân Pháp đã nã tới 16.000 quả đại bác
trong vòng một ngày trời, biến căn cứ Ba Đình thành biển lửa.
Nghĩa
quân Ba Đình đã chiến đấu trong suốt 32 ngày đêm chống lại kẻ thù đông gấp 12
lần, được trang bị vũ khí tối tân, hiện đại. Trong những trận chiến đấu vô
cùng ác liệt này, nghĩa quân đã mưu trí dũng cảm, bám trụ từng tấc đất, đập
tan nhiều cuộc tấn công, gây tổn thất nặng nề cho quân đội Pháp, làm chấn động
tinh thần binh lính Pháp ở Việt Nam và còn là nỗi lo sợ cho bọn Pháp ở chính
quốc.
Tuy
nhiên, vì lực lượng quá nhỏ không thể đương đầu với quân đội Pháp vừa đông
vừa mạnh nên lực lượng của nghĩa quân Ba Đình bị thương vong rất nhiều.
Để
tránh khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn, nghĩa quân Ba Đình đã mở con đường máu vượt
qua vòng vây dày đặc của quân Pháp, rút khỏi lên căn cứ Mã Cao nhằm củng cố lực
lượng và chuẩn bị cuộc chiến đấu mới.
Đến
sáng ngày 21 – 1 – 1887, quân Pháp mới chiếm đợc Ba Đình. Sau đó, quân Pháp đã
triệt hạ hoàn toàn cả ba làng của căn cứ Ba Đình, tiếp tục cho quân truy kích
nghĩa quân ở Mã Cao, rồi tiếp tục đến Thung Voi, Thung Khoai và cuối cùng là
tận miền tây Thanh Hóa – nơi đóng quân của Cầm Bá Thước.
Các
thủ lĩnh như Nguyễn Khế, Hoàng Bật Đạt hi sinh; Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toại
tự sát; Đinh Công Tráng chạy về Nghệ An, quân Pháp treo giải cái đầu ông với
trị giá tiền thởng rất cao. Mùa hè năm 1887, vì tham tiền nên viên Lí trưởng
làng Chính An đã mật báo cho quân Pháp đến bắt và sát hại Đinh Công Tráng.
Cuộc
khởi nghĩa Ba Đình nói chung và lãnh tụ Đinh Công Tráng được lịch sử đánh giá
rất cao, nó thể hiện lòng yêu nước, tinh thần bất khuất của nhân dân Thanh Hóa
trong Phong trào Cần Vương.
Chính
người Pháp đã phải thừa nhận: “1886 – 1887, cuộc công hãm Ba Đình là quan
trọng nhất, cuộc chiến đấu này thu hút nhiều quân lực nhất và làm cho các cấp
chỉ huy lo ngại nhiều nhất”.
b.
Cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh:
- Hoàn
cảnh lịch sử: Là một
nước tư bản phát triển, thực dân Pháp cũng chịu ảnh hưởng r ất lớn của cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933). Thực dân Pháp đã trút gánh nặng
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929
– 1933) lên vai các nước thuộc địa trong đó có Việt Nam làm cho đời sống nhân
dân vô cùng cơ cực, nhất là nhân dân hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Chính sách
khủng bố nặng nề của thực dân Pháp, nhất là sau khởi nghĩa Yên Bái thất bại đã
làm cho nhân dân ta càng căm thù và quyết tâm đấu tranh giành độc lập, giành
quyền sống. Trong lúc đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã kịp thời lãnh đạo
giai cấp công nhân và nhân dân đứng lên đấu tranh chống đế quốc, phong kiến.
Trong những nguyên nhân chung kể trên, ở Nghệ Tĩnh còn có những nguyên nhân
riêng của nó. Chính những nguyên nhân riêng đó đã khiến cho phong trào cách
mạng 1931 – 1931 ở Nghệ – Tĩnh phát triển đến đỉnh cao và là nơi diễn ra nhiều
cuộc đấu tranh của công nông quyết liệt nhất.
-
Các cuộc đấu tranh tiêu biểu của nhân dân
Nghệ Tĩnh:
+
Ngày 1 - 5 - 1930, diễn ra cuộc đấu tranh của hơn 1000 nông dân hai huyện Hưng
Nguyên, Nghi Lộc do công nhân Vinh - Bến Thủy làm nòng cốt với yêu sách đòi
tăng lương, giảm giờ làm, giảm sưu thuế.
+
Ngày 30 - 8 - 1930, 3000 nông dân huyện Nam Đàn biểu tình, vũ trang kéo đến
huyện lị, phá huyện đường, mở cửa nhà giam, giải phóng tù chính trị.
+
Ngày 1 - 9 - 1930, trên 2 vạn nông dân huyện Thanh Chương rầm rộ tổng biểu tình
vào huyện đường. Với khí thế cách mạng ngút trời, quần chúng đã tràn vào phá
nhà giam, thiêu hủy huyện đường.
+
Ngày 12 - 9 - 1930, hơn 8000 nông dân các xã
trong huyện Hưng Nguyên có vũ trang kéo lên huyện lị. Máy bay của Pháp
đã ném bom khi đoàn biểu tình vừa tới làng Thái Lão (cách huyện lị 2 km) làm
nhiều người chết và bị thương. Đến chiều, khi đồng bào ra tìm nhặt xác các
người chết thì máy bay địch lại tới ném bom lần thứ hai. Cả hai lần làm 217
người chết và 125 người bị thương.
Như
vậy, từ cuộc tổng đình công của công nhân Vinh - Bên Thủy đến cuộc tổng biểu
tình của nông dân hai huyện Nam Đàn và Thanh Chương, cao trào cách mạng ở Nghệ
Tĩnh đã đạt tới cao điểm. Bằng bạo lực cách mạng với hình thức đấu tranh chính
trị là chủ yếu, kết hợp chặt chẽ giữa thành thị với nông thôn, quần chúng cách
mạng Nghệ Tĩnh đã tấn công dồn dập vào thực dân phong kiến, làm rung chuyển bộ
máy chính quyền của chúng từ tỉnh, huyện xuống đến xã. Trước khí thế xung thiên
của quân chúng cách mạng, bọn phủ, huyện nhiều nơi trong tỉnh đều bỏ trốn. Tổng
lý các xã như rắn mất đầu, hoang mang khiếp sợ, nhiều tên đã mang sổ sách,
triện bạ nộp cho cách mạng. Ban chấp hành nông hội đỏ (xã bộ nông) đứng ra quản
lí mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế, xã hội ở nông thôn, làm nhiệm vụ của
chính quyền nhân dân theo kiểu chính quyền Xô Viết.
Từ
tháng 9 - 1930 đến đầu năm 1931, chính quyền Xô Viết đã ra đời ở nhiều địa
phương thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nó đã làm đúng chức năng của một
chính quyền cách mạng, chính quyền của dân, do dân và vì dân.
Tuy
nhiên, trong cuộc đọ sức hết sức chênh lệch này, các chính quyền Xô Viết đã
nhanh chóng bị thực dân Pháp đàn áp và gìm trong biển máu. Nhiều cán bộ, đảng
viên bị bắt, bị tù đày, các cơ sở Đảng bị tan rã, phong trào cách mạng tạm thời
lắng xuống.
Cao
trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh có một vị trí đặc
biệt quan trọng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân ta nói chung,
của nhân dân Nghệ Tĩnh nói riêng.
1.3.5. Thanh - Nghệ - Tĩnh từ 1945 đến nay:
a.
Cách mạng Tháng Tám:
Cùng
với nhân dân cả nước, nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh dưới sự lãnh đạo của Đảng đã
trải qua các thời kỳ thăng trầm của cách mạng. Năm 1945, khi thời cơ cách mạng
ngàn năm có một đến với dân tộc, với sự chuẩn bị chu đáo, nhân dân Thanh - Nghệ
- Tĩnh đã đứng lên giành chính quyền cách mạng.
Sau
khởi nghĩa tháng Tám 1945 giành thắng lợi, cùng với nhân dân cả nước, Thanh -
Nghệ - Tĩnh bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Trong hai cuộc
kháng chiến này, nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh với tư cách là hậu phương, luôn
có những đóng góp rất lớn về người và của để làm nên những chiến công hiển hách
của dân tộc.
è Ý
nghĩa:
- Cách mạng tháng
Tám là một sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Nó phá tan xiềng xích của thực
dân Pháp và phát xít Nhật trên đất nước ta. Nước ta giành được độc lập dưới chế
độ dân chủ cộng hoà.
- Thắng lợi của
cách mạng tháng Tám đánh dấu bước nhảy vọt của Cách mạng Việt Nam, mở ra kỷ
nguyên mới: giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân, độc
lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
- Thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân các nước
thuộc địa và nửa thuộc địa trên thế giới.
b. Kháng chiến
chống Mỹ cứu nước:
- Thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta một
trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới
như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế
to lớn và có tính thời đại sâu sắc.
- Chấm dứt vĩnh
viễn ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở nước ta.
- Mở ra kỷ nguyên
mới của đất nước: kỷ nguyên độc lập dân tộc, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã
hội.
- Cỗ vũ to lớn đối
với phong trào cách mạng thế giới, các dân tộc đang đấu tranh chống chủ nghĩa
đế quốc.
CHƯƠNG 4:
VĂN HOÁ ĐỊA PHƯƠNG
BÀI 1: KHÁI LƯỢC VĂN HOÁ
VÙNG BẮC TRUNG BỘ
1.
Cơ sở hình thành văn hoá khu vực Bắc Trung Bộ:
Vùng văn hoá Bắc Trung Bộ được hình
thành bởi rất nhiều nhân tố. Chúng ta có thể dựa vào những yếu tố quy định sắc
thái văn hoá của các địa phương trong cả nước để xác định không gian văn hoá
của các vùng văn hoá và các tiểu vùng.
- Vị
trí địa lý và môi trường sinh thái
- Phương thức sản xuất
- Nguồn gốc lịch sử
- Nguồn gốc tộc người
- Ngôn ngữ
- Trình độ phát triển kinh tế - xã hội
- Quan hệ, giao lưu, ảnh hưởng văn hoá
- Vai trò của vùng trung tâm
Có 8 nhân tố cơ bản tạo nên vùng văn hoá:
- Môi trờng tự nhiên: Môi trờng
đồng bằng, miền núi, cao nguyên, duyên hải… là một trong những nhân tố quy định
tạo nên vùng văn hoá.
- Hoạt động sản xuất: Là hình thức con ngời khai thác,
thích ứng với điều kiện tự nhiên để tạo ra của cải vật chất. Ở nơi nào có sự tơng
đồng về điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển và hoạt động sản xuất thì ở đó
có sự tơng đồng về văn hoá.
- Truyền thống lịch sử: C dân sinh sống trong một vùng vì
có cùng nguồn gốc lịch sử nên giữa họ vẫn giữ lại những tơng đồng văn hoá bền
vững.
- Nguồn gốc tộc ngời: Trong một vùng văn hoá chỉ có một tộc
ngời sinh sống thì tính thống nhất văn hoá của nó đã có ngay từ cội nguồn. Và
trong một vùng có nhiều dân tộc, để tạo thành những đặc trng văn hoá chung của
vùng thì trong quá trình lịch sử giữa các tộc ngời đã có mối quan hệ giao lu,
ảnh hởng sống động.
- Ngôn ngữ: Đây là một nhân tố quan trọng vì nó là phơng
tiện để sáng tạo và chuyển tải văn hoá, nhất là văn hoá dân gian. Ở các dân tộc
khác nhau, nói ngôn ngữ khác nhau cũng có thể có cùng mô típ văn hoá chung, thể
hiện trong các huyền thoại, cổ tích, lễ nghi, tín ngỡng… Và ở những vùng có
nhiều dân tộc cùng xen kẽ sinh sống, thờng có khuynh hớng lấy một ngôn ngữ
dân tộc có số đông nhất, trình độ phát triển cao nhất là ngôn ngữ (phơng tiện)
giao tiếp.
- Trình độ phát triển kinh tế xã hội: Nhân tố này ảnh hởng
tới trình độ t duy văn hoá nghệ thuật, hình thành các hình tợng và biểu tợng
văn hoá.
- Quan hệ giao lu, ảnh hởng văn hoá: Đây là nhân tố chủ
đạo, giữ vai trò quan trọng hàng đầu để hình thành nên vùng văn hoá. Trong một
vùng văn hoá, không chỉ có ngôn ngữ, tín ngỡng có sự giao thoa văn hoá mà
trong cả kiến trúc, điêu khắc… cũng còn lu giữ nhiều yếu tố đan chen giữa các
tộc ngời, các nền văn hoá khác nhau.
- Vai trò của vùng trung tâm: Quy luật phát triển kinh tế -
xã hội cũng nh văn hoá không bao giờ là dàn đều, mà thờng từ các trung tâm
rồi lan toả, phổ biến rộng ra các nơi xung quanh. Vùng trung tâm là nơi phát
sinh, nâng cao, tiếp nhận rồi lan toả theo quy luật lan truyền văn hoá.
Nh vậy, không gian lãnh thổ là một tiêu chí xác định các
vùng văn hoá. Tuy nhiên không phải vì thế mà coi không gian lãnh thổ là cái
khung “trói chặt” động thái văn hoá vùng và “cô đặc” các biểu trng, giá trị
văn hoá địa phơng. Bản chất văn hoá vùng là liên văn hoá, hình thành trên cơ
sở giao lu, ảnh hởng giữa văn hoá các tộc ngời và nhóm c dân khác nhau.
Vùng văn hoá là một không gian liền khoảnh, nhng ranh giới không cụ thể, rõ
ràng. Nếu có những loại biên giới nào đó thì chúng chỉ là ranh giới mềm và mở
cửa, đợc ngăn cách bởi các vùng “đệm” - vùng trung gian chuyển tiếp. Bản sắc
của văn hoá vùng đợc đo trớc hết và chủ yếu bới các biểu trng và giá trị văn
hoá.
2.
Văn hoá khu vực Bắc Trung Bộ trong sự đối sánh với văn hoá dân tộc.
2.1. Vài nét về
vùng văn hoá Bắc Trung Bộ.
Đây là vùng văn hoá giữ một vị trí
đặc biệt trong nền văn hoá truyền thống Việt Nam. Xét về địa giới, vùng văn hoá
Bắc Trung Bộ thuộc các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị
và Thừa Thiên Huế ngày nay, tương đương với quận Cửu Chân và Nhật Nam xưa (thời
kỳ Đông Sơn).
Xét về phương diện lịch sử, Cửu
Chân, Nhật Nam thuộc vào các Bộ của nước Văn Lang của các Vua Hùng. Đến giữa
thời Bắc thuộc thì thành hai phủ Đức Thọ và Hà Hoà (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày
nay). Còn Trị - Thiên - Huế, từ đầu thế kỷ XV, sau đám cưới của công chúa Huyền
Trân, trở thành miền biên ải lãnh thổ của Đại Vịêt. Thời kỳ Đông Sơn, vùng này
cơ bản thuộc văn hoá Đông Sơn. Từ Đèo Ngang trở vào thuộc vùng ngoại vi, tiếp
cận với văn hoá Sa Huỳnh.
Nơi đây mang đặc tính xen kẽ, tiếp
cận giữa núi - biển - đồng bằng và có ảnh hưởng nhiều tới đời sống kinh tế, xã
hội và văn hoá của cư dân. Đồng thời cũng là cái gạch nối văn hoá giữa hai miền
Nam - Bắc, là vùng “đệm”, “trung gian” giữa văn hoá Việt Đông Sơn và Việt Sa
Huỳnh, giữa Đại Việt và Chăm Pa với chức năng là nơi tiếp thu, kế thừa và giao
lưu văn hoá. Vì thế ở đây tồn tại đan xen và hoà quyện, thể hiện rõ sự ảnh
hưởng giao thoa giữa hai nền văn hoá Việt - Chăm.
Bên cạnh đó, đây cũng là vùng giáp
lưu chịu ảnh hưởng của hai nền văn hoá khổng lồ, đó là nền văn hoá Trung Hoa từ
phương Bắc tràn xuống và nền văn hoá Ấn Độ từ phía Nam tràn lên. Tuy vậy, dù là
“Hán hoá bắt buộc” hay “Ấn hoá tự nguyện”, thì cư dân nơi đây vẫn không bị đồng
hoá mà lại tiếp thu được những tinh hoa của nó để tạo một thế ứng xử văn hoá
mềm dẻo, tiếp biến có chọn lọc, trên cơ sở vẫn giữ vững bản sắc dân tộc và góp
thêm nhiều yếu tố làm đa dạng, phong phú cho nền văn hoá Việt Nam.
“Sức sống dai dẳng của văn hoá
truyền thống một phần cơ bản phụ thuộc vào sự gạn đục khơi trong của văn hoá
vùng. Đó là do sự tập trung đậm đặc của biểu tượng, giá trị văn hoá trên một
không gian lãnh thổ nhất định có sức đề kháng trước sự xâm thực bên ngoài và
bảo lưu cái truyền thống văn hoá bản địa” (Huỳnh Khái Vinh, Chấn hưng
các vùng và tiểu vùng văn hoá ở nước ta hiện nay, trang 123). Chính tính
chất “cố thủ”, hơi cứng đó được thể hiện rất rõ trong tiểu vùng văn hoá xứ
Nghệ, ngay ở tính cách, lối ứng xử của con người trong sinh hoạt văn hoá.
Có thể chia vùng văn hoá Bắc Trung
Bộ làm 3 tiểu vùng sau:
Tiểu vùng Thanh
Hoá với lưu vực sông Mã, sông Chu,
ruộng đất rộng và phì nhiêu, có di chỉ Núi Đọ, di chỉ văn hoá Đông Sơn, có quê
hương Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, có thành nhà Hồ, có Yên Trường, bia Vĩnh
Lăng. Đây cũng là quê hương của họ Trịnh, của nhà Nguyễn Gia Long. Giọng nói
của cư dân gần giọng Bắc và nói chung văn hoá truyền thống có nhiều nét giống
miền Bắc, như: sự phong phú của lễ hội, sự phát triển của nghệ thuật chèo, sự
giàu có về dân ca, dân vũ như hò sông Mã, hát ghẹo, hát trống quân, hát khúc
Tĩnh Gia, chèo chải, múa đèn... và cũng là nơi tập trung phong phú của các loại
hình trò diễn dân gian.
Tiểu vùng xứ Nghệ
(Nghệ Tĩnh) với núi Hồng, sông Lam, sông La, có
di chỉ văn hoá Thẩm Ồm, đồi Dùng, đồi Rạng, núi Dầu, rú Ta, làng Vạc... Dân cư
có giọng nói trầm, ít cung bậc, nhiều từ cổ, nhưng lại là nơi có nhiều đền thờ
nổi tiếng như “Nhất Cờn, nhì Quả, Bạch Mã, Chiêu Trưng”, quê hương
của đại thi hào Nguyễn Du, chí sĩ Phan Bội Châu, Chủ tịch Hồ Chí Minh và của
rất nhiều anh hùng hào kiệt, danh nhân văn hoá, lãnh tụ cách mạng, quê hương
Xô Viết Nghệ Tĩnh, nơi đã sinh ra các loại hình sinh hoạt văn hoá dân gian như:
hò, ví dặm, hát đò đưa.
Tiểu vùngxứ Huế (Bình - Trị - Thiên) với núi đầu Mâu, sông Nhật Lệ, núi Mai, sông Hãn, núi Ngự,
sông Hương, giọng nói và phương ngữ cũng gần Nghệ Tĩnh. ở đây có Luỹ Thầy,
truông nhà Hồ, phá Tam Giang, có kinh đô Phú Xuân với triều đại Tây Sơn, có
cung điện và lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn, có chùa Thiên Mụ, điện Hòn Chén,
quê hương của hò giã gạo, hò mái nhì, các điệu lý, ca nhạc cung đình Huế, tuồng
đồ dân gian.
2.2. Tiểu vùng văn hoá xứ Thanh và xứ Nghệ:
Xét từ góc độ hành chính, Thanh -
Nghệ - Tĩnh thuộc vùng văn hoá Bắc Trung Bộ.
Song, cũng có ý kiến của các nhà địa
lý học nói rằng, trên một ý nghĩa nào đó, châu thổ sông Mã, sông Cả chỉ là sự
“nối dài của châu thổ Bắc Bộ”. Và về mặt văn hoá, từ trước đến sau Công nguyên,
Thanh - Nghệ - Tĩnh đã thuộc không gian văn hoá Đông Sơn. Trước đó nữa, có
những di tích có tính chất của văn hoá Phùng Nguyên, nếu phải nhìn xa hơn thì
Cồn sò hến Đa Bút, Cồn Cổ Ngựa và các di chỉ hang động xứ Thanh là thuộc về
không gian văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn.
Cả giới địa lý học, dân tộc học và
văn hoá học đều coi miền núi Thanh - Nghệ - Tĩnh là sự nối dài cùng một dải của
sơn hệ Tây Bắc - Bắc Bộ. Và với cội nguồn là không gian văn hoá Việt Cổ, nên
nhiều nhà nghiên cứu đã coi Thanh - Nghệ - Tĩnh thuộc vùng văn hoá Bắc Bộ.
Tuy nhiên trong thực tế nghiên cứu,
lâu nay, khi xem xét văn hoá ở châu thổ Bắc Bộ, người ta thường đặt xứ Nghệ
Tĩnh ra ngoài và xếp thành một vùng riêng. GS. Đinh Gia Khánh trong “Các vùng văn hoá Việt Nam cũng đặt riêng
vùng văn hoá Nghệ - Tĩnh bên cạnh vùng văn hoá đồng bằng miền Bắc, ngoài việc
tách riêng vùng văn hoá Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.
PGS. Ngô Đức Thịnh không tách riêng
vùng văn hoá Nghệ - Tĩnh, mà quan niệm rằng đồng bằng Bắc Bộ bao gồm lưu vực
của sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã.
Thực ra, tách vùng văn hoá Nghệ Tĩnh
ra khỏi vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ cũng có cơ sở khoa học của nó, nhưng nếu
nhập chung vào như ý kiến của GS. Ngô Đức Thịnh, cũng có cái lý của nó. Nghệ
Tĩnh, Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, chỉ rõ sắc thái riêng khi đặt chúng vào
bối cảnh lớn hơn của vùng văn hoá lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã,
nói cách khác, đó là những tiểu vùng văn hoá, một mặt mang tính chất của châu
thổ Bắc Bộ, một mặt có những nét riêng.
Như vậy, vùng văn hoá châu thổ Bắc
Bộ nằm giữa lưu vực những dòng sông Hồng, sông Mã. Đây là vùng văn hoá như GS.
Ngô Đức Thịnh nhận xét: “Trong các sắc thái phong phú và đa dạng của văn hoá
Việt Nam, đồng bằng Bắc Bộ như là một vùng văn hoá độc đáo và đặc sắc”. Dẫn đến
điều này là một hệ quả, một tổng hoà các quan hệ của nhiều vấn đề khác nhau.
Trước hết là những đặc điểm của môi trường tự nhiên Bắc Bộ.
Nhiều nhà nghiên cứu khi nói đến Bắc
Trung Bộ nói riêng hay miền Trung nói chung, người ta thường cho rằng đây là
một tổng thể hệ thống nằm trong tổng thể hệ thống Việt Nam với các đặc điểm:
Địa hình miền Trung hẹp theo chiều ngang Đông Tây, nếu quay mặt về đông thì
trước mặt là Biển Đông, sau lưng là dãy Trường Sơn; Địa hình miền Trung chia
cắt theo chiều dọc Bắc Nam, bởi các đèo là những dãy núi đồi tách từ Trường Sơn
đâm ngang ra biển.
GS. Trần Quốc Vượng trong “Việt Nam cái nhìn địa - văn hoá” đã nhìn
nhận không gian văn hoá xứ Thanh, xứ Nghệ là cái nhìn địa văn hoá trong bối
cảnh miền Trung. Ở đó, mặt cắt của không gian địa lý có thể nhìn thấy rõ nhất
và được mô hình hoá như một hình hộp chữ nhật đứng gồm: Đèo Ba Dội - Thanh - Hoàng Mai - Nghệ - Đèo
Ngang. Bao quanh của hình hộp chữ nhật này một bên là núi và một bên là biển.
Cũng cần nói thêm về Nghệ An, Hà
Tĩnh, ngay từ thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc, thậm chí ngược lên xa hơn, Nghệ An -
Hà Tĩnh vẫn gắn bó với Bắc Bộ. Và việc tách ra theo địa giới hành chính để có
khu Bốn, chỉ có thời chống Pháp, chống Mỹ mà thôi.
Vì vậy, xác định không gian văn hoá
của vùng Bắc Trung Bộ, chúng ta phải kết hợp giữa vị trí địa lý và môi trường
sinh thái quy định nên đặc trưng văn hoá của vùng. Mặt khác, cũng cần phải xem
xét trên phương diện nguồn gốc lịch sử, nguồn gốc tộc người để nhận chân ra
được những đặc trưng văn hoá của vùng một cách đầy đủ nhất, đặc biệt là quá
trình giao lưu tiếp xúc văn hoá của các tiểu vùng đối với các không gian văn
hoá liền kề.
2.3. Kết luận:
Có thể tạm đưa ra một vài kết luận
rằng:
Vùng Bắc Trung Bộ là một vùng văn
hoá quan trọng, nối liền hai miền Nam - Bắc của đất nước.
Xét về phương diện lịch sử, đây là
vùng văn hoá có từ cội nguồn của lịch sử dân tộc, là cái nôi của người Việt cổ.
Vùng Bắc Trung Bộ sớm có sự giao lưu
tiếp xúc văn hoá trong lịch sử, giữa Đại Việt và Chăm Pa, giữa văn hoá Việt với
văn hoá Ấn Độ và Trung Hoa. Quá trình giao lưu, tiếp biến văn hoá có chọn lọc
đã làm phong phú thêm cho văn hoá của dân tộc Việt.
BÀI 2: TIỂU VÙNG VĂN HOÁ
XỨ THANH
Xứ Thanh
là dải đất cổ kính kết nối hai đại vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ và ven biển
miền Trung. Vì vậy, xét trên phương diện lịch sử văn hoá, xứ Thanh có thể được
xem là “vùng đệm”, vùng “trung gian chuyển tiếp” giữa miền Bắc (Bắc Bộ) và miền
Trung (Trung Bộ). Trên mảnh đất này, những đặc trưng văn hoá vừa mang đậm dấu
ấn của văn hoá Việt - Bắc Bộ, vừa có sự chuyển tiếp - tiếp biến văn hoá Việt
Trung Bộ. Điều đó được thể hiện rõ trong đặc điểm vị trí địa lý, môi trường
sinh thái, nguồn gốc lịch sử và trong các giá trị lịch sử văn hoá vật thể và
phi vật thể còn lưu lại cho đến ngày nay như: ngôn ngữ, văn hoá dân gian, tâm
lý tính cách con người, tôn giáo tín ngưỡng, lễ hội...
1.
Đặc trưng văn hoá xứ Thanh:
1.1. Đặc điểm vị trí, môi trường sinh thái quy định đặc
trưng văn hoá của vùng.
Xứ Thanh với khí hậu nhiệt đới nhưng
lại có cái rét ngọt, rét đậm của mùa đông Bắc Bộ, có những ngày mưa xuân ẩm
ướt, mưa phùn kéo dài, có mùa thu lá rụng và có cả hơi nóng oi ả của gió Lào
miền Trung.
Thanh Hoá có nhiều danh thắng đẹp
như bãi biển Sầm Sơn, sông Mã, động Bích Đào (còn gọi là động Từ Thức), vườn
quốc gia Bến En, suối cá Cẩm Lương, hang Kho Mường...
Xứ Thanh nằm trong vùng ảnh hưởng
của những tác động từ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, các tỉnh phía Bắc Lào và
vùng trọng điểm kinh tế Trung Bộ, ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung
Bộ; có hệ thống giao thông thuận lợi như: đường sắt xuyên Việt, đường Hồ Chí
Minh, các quốc lộ 1A, 10, 45, 47, 217..., cảng biển nước sâu Nghi Sơn và hệ
thống sông ngòi thuận tiện cho lưu thông Bắc - Nam, phục vụ cho phát triển kinh
tế, du lịch và giao lưu văn hoá với các vùng trong nước và quốc tế...
1.2. Nguồn gốc lịch sử:
Xứ Thanh là địa phương gắn rất chặt
với lịch sử dân tộc, như: văn hoá Đông Sơn, các triều đại vua chúa xuất hiện ở
Thanh Hoá (vua Lê, chúa Nguyễn, vua Nguyễn...).
Văn hoá
Đông Sơn là nền văn hoá tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, phản ánh một thời kỳ
phát triển văn hoá rực rỡ mà chủ nhân của nó là những người Việt cổ. Văn hoá
Đông Sơn thời các vua Hùng được khởi dựng ở vùng châu thổ, trung du nhiều sông
ngòi, có nghề trồng lúa nước sớm phát triển, một ngành luyện kim đạt tới đỉnh
cao. Vì vậy, khi nói đến văn hoá Đông Sơn là nói đến trống đồng với kỹ thuật
đúc đồng đạt tới đỉnh cao. Nền văn hoá Đông Sơn là niềm tự hào của xứ Thanh, và
là dấu ấn cội nguồn của dân tộc Việt trên mảnh đất này.
Xứ Thanh cũng là quê hương của nhiều
anh hùng dân tộc, là đất anh hùng và đế vương với nhiều danh nhân tiêu biểu
như: Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, Hồ Quý Ly, các chúa Trịnh, chúa Nguyễn, vua
Nguyễn... Vì vậy trong dân gian đã từng truyền tụng rằng: “Thanh cậy đế, Nghệ cậy thần” để chỉ đây là mảnh đất của nhiều đế
vương.
2.
Những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể.
2.1. Những giá trị văn hoá vật thể:
*/.
Phương thức sản xuất:
Ở Xứ Thanh, người dân với lối sống
quần tụ dọc theo nguồn nước tạo nên nhiều làng xóm liên hoàn rất thuận tiện cho
việc sản xuất nông nghiệp. Hệ thống sông ngòi cùng chi lưu chảy theo trục từ
phía tây Trường Sơn đổ ra biển Đông tạo nên mạng lưới tưới tiêu, đưa phù sa bồi
đắp các tiểu vùng đồng bằng nhỏ.
Ngày nay, những làng nghề như làng Chè
(Thiệu Trung, Thiệu Hoá), nghề đúc đồng truyền thống vẫn được phát huy và là
nguồn thu nhập chính của các nghệ nhân và thợ đúc Trà Đông. Kỹ thuật thêu dệt
thổ cẩm và trang trí các hoạ tiết hoa văn trên những tấm phá, cạp váy, khăn áo
của phụ nữ dân tộc được đồng bào Mường rất yêu thích. Người phụ nữ Mường rất
giỏi thêu dệt, chọn vải, nhuộm màu, sáng tác màu in hoa văn mà còn truyền nghề
cho lớp trẻ về kỹ thuật và hoa văn đặc sắc theo hoạ tiết in trên trống đồng
Đông Sơn.
*/.
Văn hóa ẩm thực:
Văn hoá ẩm thực là chuyện ăn uống nhìn
từ góc độ văn hoá. Bữa ăn của người Việt miền Trung đã bắt đầu có sự thay đổi,
nghiêng về các hải sản, đồ biển. Yếu tố biển đã đậm đà hơn trong cơ cấu bữa ăn
của cư dân nơi đây.
Các món ăn đặc sản nổi tiếng của xứ
Thanh như: nem chua Hạc Thành, chè lam Phủ Quảng, bánh gia Tứ Trụ, cua biển,
ghẹ, sò huyết, tôm, mực, cá thu, cá trà Sầm Sơn, Hải Thanh, Tĩnh Gia. Bên cạnh
đó còn có cam Giàng, dứa Thạch Thành, mía Kim Tân, rồi ong Yên Khương, bánh đa
Cầu Bố, rượu cần dân tộc Thái... đã tạo nên một hương vị xứ Thanh rất gần gũi
nhưng lại rất riêng.
*/.
Di tích lịch sử văn hoá:
Thanh Hoá có bề dày lịch sử hào hùng
và truyền thống văn hoá độc đáo. Cùng với những trang lịch sử oai hùng, Thanh
Hoá có 1.535 di tích, trong đó có 134 di tích được xếp hạng quốc gia, 412 di
tích đã xếp hạng cấp tỉnh với các di tích nổi tiếng như Núi Đọ, Đông Sơn, khu
di tích Bà Triệu, Lê Hoàn, thành nhà Hồ, Lam Kinh, Ba Đình, Hàm Rồng... đã
khẳng định xứ Thanh là một vùng đất “địa linh nhân kiệt”.
- Vào sơ kỳ thời đại đá cũ, bằng sự
phát hiện và khai quật khảo cổ các di chỉ Núi Đọ, núi Quan Yên, núi Nuông đã
khẳng định Thanh Hoá là nơi sinh sống của người nguyên thuỷ, đặc biệt Hang Con
Moong là nơi chứng kiến các giai đoạn phát triển liên tục của con người từ hậu
kỳ đá cũ sang thời đại đá mới.
Thanh Hoá có nhiều di chỉ đá cũ, đá
mới, đồng thau như: Núi Đọ, Đa Bút, Đông Sơn...; nhiều làng mạc cổ: Kẻ Rỵ, Kẻ
Chè, Cổ Bôn, Cổ Đô, Bột Đà Trang, Bô Lỗ Trang...
Quá trình chinh phục đồng bằng trên
đất Thanh Hoá của cư dân đồ đá mới đã để lại một nền văn hoá Đa Bút, là một nền
văn hoá khảo cổ tiến bộ cùng thời trong khu vực cách đây 6.000 năm. Sang đầu
thời đại kim khí, thuộc thời đại đồ đồng, qua các bước phát triển với các giai
đoạn trước văn hoá Đông Sơn, Thanh Hoá đã trải qua một tiến trình phát triển
với các giai đoạn văn hoá: Cồn Chân Tiên, Đông Khối - Quỳ Chữ tương đương với
các văn hoá Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun ở lưu vực sông Hồng. Đó là quá
trình chuẩn bị mọi mặt để đến văn minh Văn Lang cách đây hơn 2000 năm lịch sử,
văn hoá Đông Sơn ở Thanh Hoá đã toả sáng rực rỡ trong đất nước của các vua
Hùng.
- Trong lịch sử, tiểu vùng văn hoá
xứ Thanh đã từng có dấu ấn của các kinh đô một thời của nước Việt. Nơi đây lưu
giữ nhiều di tích lịch sử có giá trị và là chứng tích một thời vàng son của
lịch sử dân tộc. Các di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng của Thanh Hoá bao gồm:
đền Bà Triệu, đền vua Lê Đại Hành, thành Tây Đô (thành nhà Hồ), khu di tích Lam
Kinh...
+ Đền thờ Bà Triệu: Sau khi người
anh hùng chống giặc Ngô là Triệu Quốc Đạt mất, cô em Triệu Thị Trinh, dân gian
quen gọi là Bà Triệu, được tướng sĩ tôn lên làm chủ soái thay anh. Bà mặc áo
giáp vàng, cài trâm vàng, đi guốc ngà, cưỡi voi trận, nói lời khí phách: “Ta chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng
dữ, chém cá kình biển đông, đánh đuổi giặc Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô
lệ chớ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp...”. Bà lập căn cứ tại làng Đồ
Biển (Hậu Lộc ngày nay) và đã nhiều lần đánh bại quân Ngô.
Tháng 2 năm 248, tướng Ngô là Lục
Dận đem đại quân đến đánh, bà anh dũng hi sinh tại Bồ Điền. Đền Bà được dựng
tại đấy, dưỡi chân ngọn núi Bân. Cách đền 1km trên đỉnh núi Tùng là mộ Bà; dưới
chân núi có mộ 3 anh em họ Lý cũng người làng Bồ Điền, là tuỳ tướng của Bà.
Hàng năm, đến 22 và 23 tháng hai âm lịch, hàng vạn dân khắp vùng, khắp tỉnh
hành hương về đây tưởng nhớ vị anh hùng trong một lễ hội lớn có rước kiệu, múa
rồng, biểu diễn võ thuật...
+ Đền thờ Lê Đại Hành dựng tại xã
Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, trên mảnh đất rộng 40.000 m2. Hiện nay trong đền vua
Lê còn giữ nhiều hiện vật quý hiếm: hai trống đồng Đông Sơn cỡ lớn, một đỉnh
đồng, một bình hương đồng đen, một chục chiếc choé, một chiếc đĩa đá màu hồng
gọi là đĩa Ngọc Tuyết, đường kính 50cm, ở giữa lòng đĩa có hai dòng chữ Nho màu
đỏ: “Sông Nam một mảnh tuyết; Vượng khí
vạn năm còn”. Lễ hội đền vua Lê, diễn ra hai ngày 7, 8 tháng ba âm lịch,
với các trò đấu vật, múa võ... là một lễ hội lớn của xứ Thanh.
+ Thành Tây Đô (còn gọi là thành nhà
Hồ, thành Tây Kinh, thành Tây Giai): Cách thành phố Thanh Hoá 45km, trên địa
phận của ba làng Tây Giai, Xuân Giai và Đông Môn (huyện Vĩnh Lộc), một bức
thành đá đồ sộ đứng sừng sững từ hơn 600 năm nay, với người chủ trương xây dựng
là Hồ Quý Ly, đứng đầu một triều đại ngắn ngủi đầu thế kỷ 15 (1400-1407).
Trong giai đoạn này, nhà Trần suy
thoái nghiêm trọng. kinh đô Thăng Long hai lần bị quân Chămpa cướp phá. Triều
Minh ở phía bắc nước Đại Việt cũng có âm mưu thôn tính nước ta. Hồ Quý Ly lúc
ấy là quan đầu triều giỏi chữ nghĩa, giàu tham vọng, muốn lật đổ nhà Trần lên
làm vua để thực hiện những cải cách cần thiết hòng cứu vãn tình thế. Năm 1397,
Hồ Quý Ly từ Thăng Long cử Đỗ Tỉnh vào Thanh Hoá, quê hương của họ Hồ, tìm một
căn cứ địa vững chắc để xây dựng thành trì và chuẩn bị dời đô. Vùng đất huyện
Vĩnh Lộc có địa thế khá hiểm yếu nên đã được chọn làm nơi dựng đô mới sẽ gọi là
Tây Đô.
Thành Tây Đô được xây cấp tốc chỉ
sau ba tháng (1-3/1397) đã hoàn thành về mặt phòng thủ. Thành hình chữ nhật,
hai mặt nam - bắc dài 900m, hai mặt đông - tây dài 700m, cao trung bình 5-6m,
có nơi đến 10m. Thành được đắp bằng đất, mặt ngoài trường thành được ốp đá,
toàn những phiến đá rất lớn, dài tới 4,5m rộng trên 1m, nặng tới 15-20 tấn. Mặt
trong tường thành đắp đất thoai thoải để quân lính lên xuống dễ dàng. Khối
lượng đất sử dụng ước tính trên dưới 1 triệu m3. Mặt thành rộng có đường để voi
ngựa đi lại và bố trí các u pháo. Thành có bốn cổng: tiền, hậu, tả, hữu. Ba
cổng hậu, tả, hữu cao 5,4m, rộng 5,8m, dày 13,7m. Riêng cổng tiền hướng chính
nam đồ sộ nhất và vẫn còn hầu như nguyên vẹn: dài tới 30m, dày 14m gồm 2 cửa:
hai cửa hai bên cao 7,8m, rộng 5m, cửa giữa cao 8m, rộng 5,8m.
Trong nội thành Tây Đô có điện Hoàng
Nguyên, Thái miếu, các cung Diên Thọ, Phú Cực, hồ Dực Tương... nguy nga tráng
lệ không thua kém Thăng Long. Tại Tây Đô đã được tổ chức hai kỳ thi thái học
sinh (tiến sĩ), năm 1400 và 1405.
+ Khu di tích Lam Kinh (tên ghép tờ
Lam Sơn và Kinh Đô) cách Thanh Hoá 50km, thuộc xã Xuân Lam, Thọ Xuân, quê hương
anh hùng dân tộc Lê Lợi, căn cứ địa đầu tiên của khởi nghĩa Lam Sơn, đã có từ đầu
thế kỷ 15, sau khi triều hậu Lê được thành lập. Từ đó về sau đã được giành đã
được nhiều lần bổ sung, tu sửa. Ngoài những cung điện như Quảng Đức, Sùng
Hiếu... Lam Kinh còn có nhiều lăng miếu như Vĩnh Lăng của Lê Thái Tổ, Hựu Lăng
của Lê Thái Tôn, Chiêu Lăng của Lê Thánh Tôn...
Trải qua bao biến thiên lịch sử, các công trình kiến trúc
xưa đã bị huỷ hoại, chỉ còn một số dấu tích: bốn con rồng đá, những kiệt tác
điêu khắc thế kỷ 15 và quý nhất là bia Vĩnh Lăng làm bằng một phiến đá cao
2,97m, rộng 1,94m, dày 0,27m, đặt trên lưng một con rùa đá lớn. Bia được dựng
năm 1433, trên mặt bia ghi tiểu sử và công trạng Lê Thái Tổ (Lê Lợi) do Nguyễn
Trãi soạn. Đây là tấm bia thuộc loại đẹp nhất, lớn nhất, có giá trị lịch sử và
văn học trong kho tàng bi ký Việt Nam.
+ Đền Độc Cước: ở thị xã Sầm Sơn,
gắn liền với sự tích chàng trai khổng lồ đã tự xé đôi thân mình để vừa đánh
giặc quỷ biển ngoài khơi và đánh giặc trong đất liền cứu dân làng. Tưởng nhớ
công ơn của chàng, người dân Sầm Sơn đã lập miếu thờ chàng ngay bên tảng đá có
vết lõm dấu chân khổng lồ tương truyền là bàn chân của chàng và sau này là đền
Độc Cước. Đền được lập từ đời Trần, dựng lại vào thời Lê và đã được trùng tu
nhiều lần. Muốn lên đền phải đi qua 40 bậc đá. Phía sau đền có Môn lâu bằng gỗ
dựng năm 1863. Trong đền có tượng thần Độc Cước bằng gỗ, chỉ có một tay, một
chân. Chân tượng dựng vững chắc trên hòn đá tảng, tay tượng có cây búa ở tư thế
đang vùng về phía sau lấy đà chém loài quỷ biển.
2.2. Những giá trị văn hoá phi vật thể:
*/.
Ngôn ngữ:
Phương ngữ xứ Thanh nặng nhưng ngữ
âm lại giống các tỉnh phía Bắc nhiều hơn là các tỉnh Trung Bộ. Về tên gọi, cũng
như ở Bắc Bộ, Thanh Hoá có các tên gọi: kẻ, xá, trang, hương, phường, vạn... Từ
kẻ bắt nguồn từ tiếng Mường quel. Ngày nay, từ kẻ cũng được nhiều làng xã tỉnh Thanh gọi: kẻ Rị, kẻ Chè, kẻ Lở, kẻ
Lào, kẻ Xộp, kẻ Mơ, kẻ Trường, kẻ Mom...
GS. Trần Quốc Vượng nhận xét: Người
xứ Thanh có một cách phát âm tiếng Việt khó lẫn, không nhẹ lướt như tiếng Hà
Nội xứ Bắc, không nặng - lặng trầm như tiếng Nghệ - xứ Trung. Xứ Thanh là sự mở
đầu của mô - tê - răng - rứa, của
miền Trung, dân Hà Nội phải nghe lâu và phải học thì mới biết được.
*/ Sinh hoạt văn hoá dân gian:
Xứ Thanh là một vùng phong phú về
dân ca như: hát cửa đình Thanh Hoá (còn gọi là hát Nhà trò - một dị bản của ca
trù), hát trống quân, hát ghẹo (hát huê tình), chèo chải Thiệu Hoá, Hoằng Hoá,
hát khúc Tĩnh Gia... và nổi tiếng nhất là tổ khúc hò sông Mã. Ở các dân tộc
thiểu số có các hình thức diễn xướng dân gian như: múa Sạp (Mường), khua luống
(Thái)...
Về truyện cười, truyện trạng xứ
Thanh, đã có giả thuyết về mối liên hệ giữa nhân vật lịch sử Nguyễn Quỳnh quê ở
Thanh Hoá và Trạng Quỳnh dân gian, hình tượng trung tâm của một chùm 40 truyện
Trạng được truyền tụng khắp nước ta từ Nam ra Bắc, và được coi là đỉnh cao của
di sản truyện cười, truyện trạng Việt Nam.
Thanh Hoá cũng là nơi sinh ra nhiều
truyền thuyết, giai thoại về các nhân vật lịch sử, tạo thành những vùng thể
loại văn hoá như: vùng truyền thuyết - nghi lễ Lam Sơn, vùng truyền thuyết Bà
Triệu, vùng trò diễn Đông Sơn, các tích chuyện về Thần Độc Cước, Từ Thức...
Hò sông Mã là đỉnh cao của sinh hoạt
văn hoá dân gian ở xứ Thanh. Sông Mã là nơi giao thương trao đổi hàng hoá giữa
miền xuôi với mạn ngược. Hò sông Mã với hơn mười làn điệu, có quy cách, thủ tục
hẳn hoi gắn liền với quá trình lao động của anh trai đò.
Hò sông Mã với hơn một chục làn
điệu, có quy cách, thủ tục hẳn hoi gắn liền với quá trình lao động của anh trai
đò. Bắt đầu là hò rời bến (còn gọi là hò mời khách). Khi trời trở gió, thuyền
bị ngược nước, trai đò dùng sào song vừa chống vừa hò đò ngược, còn gọi là hò
chống sào hay sắng nước ngược. Khi thuận buồm xuôi gió, trai đò hò đò xuôi gồm
nhiều làn điệu: hò bắc cái, hò nhịp đôi, hò đường trường, hò niệm Phật, hò làn
ai, hò làn văn, hò ru ngủ. Khi chẳng may thuyền mắc vào bãi cát ngầm, trai đò
vừa hò mắc cạn vừa lội xuống vác thuyền ra khỏi lạch. Hò mắc cạn có hai lan
điệu: lúc mực nước quá cạn thuyền chìm sâu trong cát, phải vác thuyền thì họ hò
vác; nếu có thể buộc dây vào kéo cho thuyền ra khỏi lạch thì họ hò kéo. Những
điệu hò này chỉ có ở sông Mã mà thôi.
*/.
Văn hoá tâm linh - lễ hội:
Về tín ngưỡng dân gian, Thanh Hoá
vẫn còn lưu giữ được nhiều lễ tục phong phú, đa dạng và đặc sắc. Điều dễ nhận
thấy là tín ngưỡng phồn thực khá phổ biến ở khắp mọi vùng miền, tiêu biểu như:
Trò Chụt, trò Lý Liên, tục chơi Hang Lãm... thể hiện khát vọng của nhân dân
mong cho mùa màng, cây trái tốt tươi, vật nuôi sinh sôi nảy nở, dân khang vật
thịnh.
Các tôn giáo Phật, Lão, Mẫu cũng du
nhập vào Thanh Hoá từ rất sớm, trước thế kỷ X, nên ở đây có nhiều chùa chiền,
bia, tượng khá cổ như: chùa Sùng Nghiêm (Hậu Lộ), chùa Linh Xứng (Hà Trung),
đền Đồng Cổ (Thiệu Yên), đền Sòng Sơn (Bỉm Sơn)...
Trong văn hoá dân gian của người
Việt, có di tích là có lễ hội, và lễ hội cũng do bởi tính chất của từng loại
hình di tích tạo nên để người dân có cơ hội được hướng tâm linh về với cội
nguồn, để được cộng cảm, cộng mệnh, thoã mãn nhu cầu giải trí và hưởng thụ văn
hoá.
Ở xứ Thanh lễ hội rất phong phú, đa
dạng, mang đậm dấu ấn phong tục tập quán, ký ức lịch sử từ thời dựng nước cho
đến nay. Lễ hội đền Bà Triệu diễn ra vào ngày 22 - 23 tháng hai âm lịch hàng
năm. Lễ hội đền vua Lê, diễn ra hai ngày mồng 7 và mồng 8 tháng ba âm lịch, với
các trò chơi dấu vật, múa võ là một trong những lễ hội lớn của xứ Thanh. Lễ hội
đền Độc Cước...
Mảnh đất này từng là đất đóng đô của
các triều đại quân chủ Việt Nam: Tây Đô của nhà Hồ, Lam Kinh của nhà Lê và thời
Lê Trung Hưnh là kinh đô Vạn Lai. Nhờ đó mà xứ Thanh có sự ảnh hưởng và tiếp
cận văn hoá, tôn giáo tín ngưỡng chính thống của các triều đại đương thời,
ngược lại, địa phương và yếu tố trội của văn hoá xứ Thanh cũng lan toả và hoà
quyện vào văn hoá Việt.
*/. Quan hệ giao lưu ảnh hưởng văn hoá:
Tính chất trung
hoà của khí hậu, có thể cũng là một tác nhân quan trọng tạo nên tính cách của
người xứ Thanh trong ứng xử, vừa có cái thật thà, chân tình, thẳng thắn, nồng
hậu của miền Trung, vừa có nét hào hoa, đôn hậu của xứ Bắc.
Với vị trí mở,
nơi giao lưu của các luồng văn hoá Đông Nam Á, Ấn Độ, Trung Hoa... Thanh Hoá từ
xa xưa đã là nơi gặp gỡ và thông thương với nhiều nền văn hoá bên ngoài.
Từ nhiều thế kỷ
trước, đặc biệt là thế kỷ XV trở đi, những lưu dân của xứ Thanh đã theo các vua
chúa Lê, Trịnh, Nguyễn... ra Bắc vào Nam, tiên phong trong việc giữ vừng cương
vực đất nước, mở mang bờ cõi avf mang theo những sắc thái văn hoá xứ Thanh đến
vùng đất mới.
Với vị trí xã
trung tâm chính trị của cả nước, nên trình độ phát triển kinh tế – xã hội có
phần thấp hơn, ảnh hưởng giao lưu văn hoá với khu vực và Trung Hoa có phần bị
hạn chế hơn, nên xứ Thanh vẫn còn lưu giữ được nhiều yếu tố văn hoá Việt cổ hơn
chốn kinh kỳ vùng Bắc Bộ.
Tiểu vùng xứ
Thanh với vị trí tiếp giáp với vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ, ngay từ thời kỳ
Đông Sơn và đầu công nguyên đã có sự giao lưu văn hoá chủ yếu men theo dòng
sông Mã với phía thượng nguồn. Và lùi vào miền Trung xứ Nghệ, dấu ấn của việc
giao thương bằng đường thuỷ nối vùng miền núi trường sơn với miền biển càng rõ
nét hơn.
BÀI 3: TIỂU VÙNG VĂN HOÁ
XỨ NGHỆ
1.
Đặc trưng văn hoá xứ Nghệ:
Xứ Nghệ bao gồm Nghệ An và Hà Tĩnh.
"Nếu xét về mặt quản lý hành chính thì chia làm hai cũng có mặt thuận
tiện. Nhưng nếu xét về mặt văn hoá thì gộp làm một lại hợp lý hơn; nhân dân
gọi chung vùng Nghệ Tĩnh là xứ Nghệ. Xét cho kỹ thì Nghệ Tĩnh tuy một mà hai,
và mặt khác Nghệ An và Hà Tĩnh tuy hai mà một" (Đinh Gia Khánh, Cù Huy
Cận trong Các vùng văn hoá Việt Nam).
Ngoài những đặc điểm chung của vùng
văn hoá Bắc Trung Bộ, xứ Nghệ có nhiều đặc trng văn hoá nổi bật so với các
tiểu vùng khác trong cả nước.
1.1.
Môi trường tự nhiên quy định đặc trưng văn hoá của vùng:
Xứ Nghệ trong tổng thể không gian
văn hoá Bắc Trung Bộ là sự hợp phân, đan xen và thâm nhập giữa “núi rừng - đồng
bằng - biển”, dẫn tới sự đa dạng trong các hoạt động sản xuất và đa dạng về văn
hoá.
Nói đến xứ Nghệ, GS Trần Quốc Vượng đã
dựa trên câu thơ nổi tiếng của Hồ Xuân Hương: “Một đèo, một đèo, lại một đèo” để mô hình hoá địa hình xứ Nghệ nói
riêng và toàn bộ miền Trung nói chung như một hình hộp chữ nhật đứng, được các
đèo và các sông chảy dưới đèo theo chiều từ Tây sang Đông, nét sơn văn quy định
nét thuỷ văn theo địa lý học: núi - biển - sông - đèo.
Địa hình nơi đây còn được mở rộng ra bởi quá trình “biển
lùi”, bãi Sò ở Diễn Châu, những ngấn nước trên vách đá vôi ở Quỳnh Lưu chẳng
hạn là hiện tượng khẳng định đáy biển cũ được nâng lên dần theo thời gian. Và
sự tồn tại của các cửa - cảng của sông Lam - sông La như: Cửa Lò, Cửa Hội, Cửa
Cờn... tạo nên các con đường giao thương và vị trí quan trọng cho vùng đất xứ
Nghệ. Chính vì thế mà GS Trần Quốc Vượng đã thêm cho xứ Nghệ - miền Trung một
hằng số nữa bên cạnh bốn hằng số núi - biển - sông - đèo là hằng số cảng - thị.
Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như: nắng nóng, gió Lào, bão
lũ… làm cho con người gặp nhiều khó khăn trong sản xuất và đời sống. Núi -
sông hiểm trở đã tạo cho mảnh đất xứ Nghệ vẻ gân guốc, rắn rỏi; thiên nhiên
hiểm trở gập ghềnh gây khó khăn cho trồng trọt và buộc con người phải vất vả và
cố gắng nhiều. Nhìn chung khí hậu khắc nghiệt đối với sinh vật và con người xứ
Nghệ, cuộc vật lộn giữa con người với thiên nhiên diễn ra liên tục, được phản
ánh khá đậm nét trong các thể loại văn hoá dân gian của nhiều tộc người nơi
đây.
1.2. Nguồn gốc lịch sử:
Cái tên cổ nhất được biết đến từ
thời Văn Lang là Việt Thường. Qua các tên gọi Hàm Hoan (thời nhà Hán đô hộ),
Cửu Đức (thời Tam Quốc) và Hoan Châu (nhà Đường 622), mãi đến đời Lý Thái Tông
(1033) mới đặt là Nghệ An thay cho tên Hoan Châu. Và tên đất Nghệ An (xứ Nghệ)
được dùng đến giữa thế kỷ XIX thì chia ra hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Năm
1976, hợp lại Nghệ Tĩnh và đến tháng 8-1991 lại tách ra hai tỉnh.
Tuy là hai tỉnh nhưng lại có những
nét chung tương đồng về khí hậu, phong thổ, tập tục, văn hoá, tín ngưỡng...
nên trong nghiên cứu, tìm hiểu về văn hoá, các nhà nghiên cứu đã xác định đây
là một tiểu vùng văn hoá xứ Nghệ.
Hiện nay, chiếm tuyệt đại đa số cư dân đồng bằng ở Nghệ Tĩnh
là dân tộc Kinh (Việt), ở miền núi chủ yếu là người Thái, H’Mông... Ngoài ra
còn có những tộc người cư trú thành từng làng nhỏ trên ven dãy Trường Sơn như:
người Đan Lai, Ly Hà, Cuối, Thổ, Tày Poọng, Chứt, Bồ Lô, Mã Liềng, Cọi... Kết
quả nghiên cứu cho thấy rằng, đất Nghệ Tĩnh xưa vốn là một trong những địa bàn
sinh tụ của người Việt cổ, và bảo lưu nhiều yếu tố tiêu biểu cho nền văn hoá
Việt Nam.
2.
Những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể:
2.1. Những giá trị văn hoá vật thể:
Văn hoá dân gian xứ Nghệ bao gồm cả một đời sống văn hoá
nghệ thuật khá phong phú và độc đáo thể hiện trong các tác phẩm kiến trúc, điêu
khắc, trong lối ứng xử với các dạng thức văn hoá hàng ngày như: ăn, mặc, ở, đi
lại..., trong hệ thống đình, chùa, miếu mạo, nhà thờ... của người dân, tạo nên
sự trù phú trong di sản văn hoá vật thể dân gian Nghệ Tĩnh.
Trong môi trường tự nhiên và điều kiện sống nhiều khó khăn,
khắc nghiệt, người dân xứ Nghệ đã tích lũy, hội tụ và sáng tạo ra nhiều nét độc
đáo trong cách nghĩ, cách sống và sinh hoạt hàng ngày. Người ta sáng tạo văn
hoá không phải để đi đến một tầm hiểu biết cao siêu hay nâng cao trình độ mà là
để phục vụ cho chính cuộc sống của mình, đáp ứng nhu cầu hằng xuyên của con
người. Bởi vậy, những sáng tạo văn hoá đó không mang tính chất chạy đua, so bì,
mà là sự phát triển tự nhiên được thôi thúc bởi nhu cầu sống và hoạt động của
con người. Văn hoá dân gian xứ Nghệ bởi thế không chỉ phong phú về hình thức,
thể loại mà còn phong phú cả về số lượng, có sự đóng góp to lớn trong việc giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hoá của một vùng quê Việt Nam.
*/. Phương thức sản xuất:
Ở vùng đất này, đặc trưng khó khăn thì nhiều mà thuận lợi ưu
đãi của thiên nhiên thì ít. “Xứ Nghệ An
(xứ Nghệ ngày nay) gần núi giáp biển, đất đai sỏi sạn, cằn cỗi lại không có mấy
nơi bằng phẳng rộng rãi, nên từ xưa không có chính sách đắp đê, thế thì ruộng
đất ở đây hẹp và chênh là khá rõ”. “Do
đất xấu, dân nghèo nên chịu khổ nhẫn nại, cần cù kiệm ước đã quen nền nếp”
(Bùi Dương Lịch - Nghệ An ký). Môi
trường tự nhiên đã ảnh hưởng và chi phối rất nhiều đến kinh nghiệm sản xuất,
lối ứng xử và tính cách của con người nơi đây. Người dân vẫn làm nông nghiệp
(lúa nước) là chính nhưng bên cạnh đó còn phát triển các nghề đi biển (dân miền
biển) và đi rừng (dân miền núi), tạo nên tính chất thuần nông pha rừng, pha
biển. Trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt do ảnh hưởng của gió Lào (gió Phơn
Tây Nam), của mưa ngàn, bão biển, lũ lụt, thiên tai và đất đai cằn cỗi nghèo
nàn, các ngành nghề thủ công ít phát triển trên quy mô lớn mà chủ yếu phục vụ
nền kinh tế tự cấp tự túc mà thôi.
GS Trần Quốc Vượng cho rằng: “Có một nền văn hoá cảng - thị của xứ Nghệ -
miền Trung ở mặt tiền, hướng ra biển với sự kết hợp thương - sĩ cả ở thương
trường và chính trường. Và cũng có một nền văn hoá nông nghiệp của xứ Nghệ miền
Trung ở hậu phương với hai nhánh:
Văn hoá nương rẫy trồng khô ở miền đồi - chân núi
Văn hoá ruộng nước, có đê, có kênh lạch ở miền châu thổ
Lam giang và các chi lưu”.
Bên cạnh đó nền thương nghiệp nhỏ, manh
mún, chỉ phát triển ở một thời kỳ nhất định, chất lượng hàng hoá cao nhưng số
lượng ít, làm cho đời sống người dân vẫn không cải thiện được.
*/.
Văn hoá ẩm thực:
Ngoài những đặc điểm chung trong cơ
cấu bữa ăn của người Việt là Cơm + rau + cá, thức ăn và cách chế biến món ăn
của người dân xứ Nghệ đã cho thấy ở vùng đất này một “bản sắc văn hoá độc đáo”
thể hiện trong văn hoá ẩm thực nói riêng và trong các sinh hoạt văn hoá của
người dân nói chung.
Xứ Nghệ không được thiên nhiên ưu
đãi nên không có nhiều thuận lợi trong phát triển nông nghiệp nhưng lại là vùng
đất có đầy đủ các dạng cảnh quan môi trường sinh thái khí hậu khác nhau. ở đây
có cả yếu tố rừng núi, trung du, đồng bằng ven sông và duyên hải ven biển. Cơ
cấu bữa ăn không “xa rừng nhạt biển”
như ở châu thổ Bắc Bộ mà nghiêng dần về việc sử dụng nguồn thực phẩm từ thuỷ
hải sản. Bởi vậy, đã tạo nên sư phong phú trong việc chế biến các món ăn đời
thường cũng như các món ăn lễ tết và cao hơn nữa là các món quà đặc sản. Người
Nghệ không chế biến món ăn cầu kỳ, trước khi ăn ngon thì nhu cầu ăn lấy no thôi
thúc việc sáng tạo văn hoá ẩm thực. Vì vậy, các món ăn của người Nghệ rất dân
dã, cho thấy rõ yếu tố kiệm ước do bởi nguồn lương thực, thực phẩm không được
dồi dào.
Tuy vậy, trên mảnh đất xứ Nghệ cũng
đã kết tinh nhiều món ăn đặc sản nổi tiếng như: Cam Xã Đoài, bưởi Phúc Trạch,
hồng Nam Đàn, cháo lươn, cháo hến, cà pháo Nghi Lộc, nhút Thanh Chương, tương
Nam Đàn, kẹo Cu đơ, mực nháy, cá thu, cá cơm... Đặc biệt phải kể đến chè xanh
xứ Nghệ là một nét văn hoá độc đáo, đặc sắc, không giống với bất kỳ một vùng
văn hoá nào trong cả nước. Chè xanh được trồng ở khắp cả nước, nhưng chè xanh
xứ Nghệ vẫn được xem là ngon nhất. Có lẽ do chúng đưcợ trồng ở một mảnh đất
nhiều sỏi đá, thời tiết khắc nghiệt, mùa hè thì gió Lào rát bỏng, mùa đông thì
giá lạnh thấu xương nên trong cây chè dường như đã hội tụ vị chát đắng đặc biệt
của trời đất và mồ hôi của những người dân lam lũ. Tất cả những đặc trưng văn
hoá ẩm thực này đã làm nên “bản sắc” văn hoá của xứ Nghệ, không trộn lẫn với
bất kỳ vùng nào trong cả nước.
*/.
Di tích lịch sử văn hoá:
Từ thưở đất nước có tên là Văn lang,
xứ Nghệ đã là một trung tâm của nền văn hoá Đông Sơn nổi tiếng, với di chỉ Làng
Vạc và nhiều di chỉ khác (theo GS. Hà Văn Tấn, Văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam, 1994). Từ thời Bắc thuộc đến thời cận
- hiện đại, xứ Nghệ đã ghi lại dấu tích của bao anh hùng hào kiệt với hệ thống
di tích lịch sử văn hoá đa dạng:
- Từ vua Thục (đền Cuông), vua Mai
(đền Mai Hắc Đế), vua Quang Trung (Phượng Hoàng Trung Đô)... Xứ Nghệ có hai nơi
thờ Thục An Dương Vương là đền Đức Vua (ở Nghi Xách, Nghi Lộc) và đền Cuông (ở
Diễn An, Diễn Châu). Đền Cuông được đặt giữa sườn núi Mộ Dạ.
Cách thành phố Vinh hơn 20km, trân
địa phận thị trấn Nam Đàn có đền thờ Mai Thúc Loan, người anh hùng đã có công
đánh đuổi giặc Đường, lập nước Vạn Xuân vào thế kỷ thứ 8.
Năm 1788, Nguyễn Huệ quyết định đóng
đô ở Nghệ An, giao cho trấn thủ Thận và cố vấn Nguyễn Thiếp tổ chức xây dựng
thành Phượng Hoàng Trung Đô ở khu vực núi Dũng Quyết, Bến Thủy. Thành ngoài xây
bằng đất và đá ong, hình tứ giác, chu vi 2.820m, bờ thành cao 3-4m, diện tích
22ha, bao quanh thành ngoại là con hào rộng 30m, sâu 3m. Thành nội xây bằng
gạch vồ và đá ong, chu vi 1.680m, với hai dãy hành lang nối liền với điện Thái
Hoà, nơi vua thiết triều. Tuy nhiên, do vua mất sớm nên không kịp dời đô từ Phú
Xuân ra Trung Đô. Ngày nay, nhân dân lập đền thờ vua Quang Trung trên núi Dũng
Quyết để tôn thờ.
- “Nhất Cờn, nhì Quả, Bạch Mã, Chiêu Trưng” là bốn ngôi đền đẹp nhất
của xứ Nghệ. Đền Chiêu Trưng còn gọi là đền Võ Mục (Thạch Bàn, Thạch Hà). Đền
thờ Lê Khôi (thuỵ là Võ Mục), tham gia nghĩa quân Lam Sơn và mất tại Cửa Sót
dưới chân núi Nam Giới. Đền Chiêu Trưng gồm 3 toà nhà được xây dựng năm Đinh
Mão (1477) một năm sau khi ông mất. Thượng điện trên hương án sơn son thiếp
vàng là bức tượng Chiêu Trưng Lê Khôi bằng gỗ sơn son.
- Chùa Hương Tích nằm trên ngọn
Hương Tích trong dãy Hồng Lĩnh (Thiên Lộc, Can Lộc). Tục truyền chùa do công
chúa Diệu Thiện, con gái của Sở Trang Vương tạo dựng khi đến tu hành ở đây.
Theo truyền thuyết kể lại: Xưa kia người ta thường đến am Thánh Mẫu để cầu tự,
ông Hiệp trấn họ Trần cầu tự ở đây sinh được 3 con trai đặt tên là Hồng, Hương,
Tích và một chúa Trịnh không rõ chúa nào cũng vào cầu tự và sinh được thế tử.
Hàng năm chúa sai người vào đây tạ ơn Phật tổ, sau thấy vùng Hương Sơn – Hà Tây
phong cảnh đẹp lại gần kinh thành nên cho xây chùa để tiện đi lễ Phật, khỏi
phải vào Ngàn Hống xa côi. Vì vậy, chùa Hương Hà Tây cũng gọi theo tên chùa
chính là Hương Tích tự. Quần thể di tích chàu Hương gồm có: 2 toà chùa ngoài và
trong, am Thánh Mẫu, đền Thiên Vương (đền thờ Hồng Sơn Đại Vương), và lên cao
nữa có đền Trang Vương. Chùa Hương Tích là sự phối hợp tài tình giữa cảnh đẹp
thiên nhiên và quần thể kiên trúc tôn giáo.
Ngoài ra còn phải kể đến hệ thống
các di tích liên quan đến các danh nhân văn hoá như: Nguyễn Du, Nguyễn Công
Trứ, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh... ; những công trình nghệ thuật như: đình
Hoành Sơn, đình Trung Cần... cũng là những di sản văn hoá vật thể hiện hữu
trong đời sống của người dân nơi đây.
2.2. Những giá trị văn hoá phi vật thể:
*/.
Ngôn ngữ:
Đây là một
nhân tố quan trọng và là một đặc trưng cơ bản của tiểu vùng văn hoá xứ Nghệ.
Phương ngữ Nghệ Tĩnh là một tiểu phương ngữ nằm trong phương ngữ Bắc Trung
Bộ.
Ở Nghệ Tĩnh
còn tồn tại một số từ vựng dường như không được dùng ở Bắc Bộ, như từ: rú
(núi, rừng), trành (vại cong bằng sành), chủi (chổi), chởi
(chửi), cơi (sân)… Tiếng mẹ đẻ của đồng bào nói chung cũng gần gũi với ngôn
ngữ Việt - Mường. Chẳng hạn: trời = blời, plời; đá = kholtá (Việt
cổ = lađá); đầu = klôộc (Nghệ Tĩnh = trôốc); trâu = klu, klâu
(Nghệ Tĩnh = tru).
“Thổ âm người Nghệ An đục và nặng (trọc),
nhưng đều có thể bắt chước tiếng khác được” (Bùi Dương Lịch, Nghệ An
ký). Và trong tiếng Nghệ, sự phong phú không chỉ là ở ngôn từ địa phương
mà còn ở ngữ âm, thanh điệu của tiếng nói, có khi hai làng gần nhau nhưng có
giọng nói khác nhau, tạo nên tính hấp dẫn lạ thường trong nghiên cứu phương
ngữ học.
Đây là một đặc trưng cơ bản và rất quan trọng đối với xứ
Nghệ. Thổ âm người xứ Nghệ không giống với các nơi khác, dân cư có giọng nói
trầm, nặng, ít cung bậc, ít bóng bẩy và nhiều từ cổ. Phương ngữ của người xứ
Nghệ nói chung không có sự phân biệt giữa thanh ngã và thanh nặng, giữa một số
địa phương với nhau thường có sự phân biệt về thổ ngữ:
Tiếng làng Tràm
nói chua lét lét
Tiếng Thạch Động
nói trẹt bè le
Chỉ có làng ta nói
dễ nghe.
Việc sử dụng nhiều từ vựng địa phương là một trong những nét
văn hoá của xứ Nghệ. Tính cách con người xứ Nghệ cũng được biểu hiện khá rõ
trong việc sử dụng vốn từ địa phương và âm điệu của giọng nói, qua đó thể hiện
sự rắn rỏi, kiên quyết, thông minh nhưng cũng rất nghĩa tình.
Tiếng Nghệ với những đặc trưng và sắc thái riêng của nó,
mang đầy đủ tính chất của một phương ngữ tiếng Việt, một phương ngữ mang nhiều
dấu vết của tiếng nói người Việt cổ.
*/. Quan hệ, giao lưu, ảnh hưởng văn hóa :
Nghệ Tĩnh là phên dậu phía Nam của Đại
Việt. Do vị thế địa - chính trị cho nên Nghệ Tĩnh, cụ thể là Hà Tĩnh có sự hỗn
dung sắc thái văn hóa Việt - Chăm khá rõ nét. Không chỉ trong ngôn ngữ, tín
ngưỡng có sự giao thoa ấy mà cả trong kiến trúc, điêu khắc cũng còn lưu giữ
nhiều yếu tố đan xen Việt - Chăm. Sự hỗn dung ngoại vùng đó là kết quả của quá
trình giao thoa văn hoá.
Nghệ Tĩnh là nơi giao lưu ảnh hưởng
giữa hai luồng văn hoá khổng lồ của Ấn Độ từ phía nam tràn lên và của Trung
Quốc từ phía bắc tràn xuống. Tuy nhiên, qua quá trình giao lưu và tiếp biến đó,
sức sống của văn hoá bản địa, văn hoá dân tộc qua sự hội nhập mạnh mẽ, toàn
diện và lâu dài đã không làm cho nó mất sắc thái mà ngược lại càng làm cho văn
hoá vùng đất xứ Nghệ đa dạng, phong phú hơn.
Đây là vùng chuyển cư giữa các tộc
người thuộc ngữ hệ Môn - Khơmer từ phía nam lên rồi dừng lại ở phía nam đèo
Ngang như người Rộc, Vân Kiều... và của các tộc người thuộc ngữ hệ Tày Thái
hoặc H'Mông Dao từ phía bắc xuống. Bên cạnh đó đây cũng là nơi giao lưu các sắc
thái văn hoá của hai miền đất nước thể hiện ở một số loại hình như kiến trúc,
ngôn ngữ, văn học nghệ thuật, văn hoá tâm linh, phương thức sản xuất, trang
phục, ẩm thực, văn hoá ứng xử...
Ở Nghệ Tĩnh còn có mối quan hệ qua lại
giữa văn hoá dân gian và văn hoá bác học, và nó có ảnh hưởng rất mạnh đến nội
dung và hình thức của văn hoá dân gian. Đây vừa là một nhân tố nội sinh, vừa là
một đặc trưng của tiểu vùng văn hoá xứ Nghệ.
*/. Tính cách con
người xứ Nghệ:
Chính trong điều kiện tự nhiên và lịch sử nhất định, trải
qua trường kỳ đấu tranh với thiên tai và ngoại xâm, đã tạo cho con người xứ
Nghệ một nét tính cách riêng dễ phân biệt với các địa phương khác. “Người Nghệ An khí chất chất phác, đôn hậu,
tính tình từ tốn, chậm chạp, không sắc sảo, cho nên làm việc gì cũng giữ cẩn
thận, bền vững, ít khi bị xao động bởi những lợi trước mắt”. “Phong tục thì
thuần hậu, người thuận hoà, chăm học” (Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký).
Con người mới đây đã mang trong mình đậm nét văn hoá đặc
trưng, đặc biệt là trong tính cách ứng xử giữa con người với con người thì
cương trực, thẳng thắn "có răng nói rứa"; trong văn hoá ăm thực
"chặt to kho mặn"; trong trang phục "ăn chắc mặc bền"; hay
trong giao tiếp thì "ăn to nói lớn".
Người Nghệ có những thô ráp vụng về trong quan hệ ứng xử.
Song người Nghệ lại có cái chất phác đáng yêu và cái khí khái đáng trọng. Đặc
điểm lịch sử tạo cho người Nghệ có những cá tính khác thường trong nếp sống,
trong phong tục, trong đạo lý “Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần”. Nghệ Tĩnh bảo lưu
có lúc tới trì trệ, cái mới nhập vào cũng khó và cái cũ tan đi lại không phải
dễ. Cho nên trong nếp sống và quan hệ ứng xử, tuy vẫn có sự phân hoá nhưng
người Nghệ vẫn giữ được nhiều cốt cách của truyền thống.
Con người nơi đây rất giàu lý tưởng, lý tưởng vươn lên tới
cái đích cao, vượt lên thực tại. Nhưng trong đó cũng có tính chủ quan, bảo thủ
đã trở thành nhược điểm trong suy nghĩ và hành động. Người xứ Nghệ còn nổi bật
với chất trung kiên, sự chất phác, tính chân thực, khí tiết bền bỉ. Chính sự
khắc khổ trong sinh hoạt do hoàn cảnh thiên nhiên nghiệt ngã đã tạo nên bản
năng tự vệ, sẵn sàng ứng phó với mọi nguy nan có thể xảy ra. Trong sinh hoạt
hằng ngày người dân phải phòng xa, hạn chế dục vọng, thiết thực trong nhu cầu
ăn ở, thận trọng trong xử thế, dè dặt trong quy mô. Bên cạnh cái khô khan, khắc
khổ người ta còn gặp ở con người xứ Nghệ nét bướng bỉnh, ngang tàng nhưng phong
cách sống rất cần kiệm, cẩn thận. Phải chăng những nét đối lập đó đã tạo nên
một nền văn hoá dân gian phong phú, đóng góp vào sự đa dạng của nền văn hoá dân
tộc.
Ông Đồ Nghệ xưa đã trở thành một hình tượng rất độc đáo, kết
tinh những nét tiêu biểu trong tính cách người Nghệ Tĩnh, những tính cách chỉ
có thể được hun đúc trên một vùng đất gió Là nắng lửa, bên núi Hồng sông Lam,
với những câu hò, câu ví dặm đậm đà muối mặn gừng cay.
*/. Sinh hoạt văn
hoá dân gian:
Đây là lĩnh vực diễn ra vô cùng phong phú trên mảnh đất giàu
truyền thống - xứ Nghệ. Đó là một kho tàng văn hoá dân gian phong phú và độc
đáo, được các nhà nghiên cứu tập hợp trong cuốn “Địa chí văn hoá dân gian Nghệ Tĩnh” do cố GS Nguyễn Đổng Chi chủ
biên. Đó là vô vàn truyện dân gian, từ sự tích các thắng cảnh thiên nhiên (núi,
sông, đầm, rú...), sự tích về các nhân vật thần thoại, về người tiên Phạm Viên,
về ông Thánh địa lý Tả Ao, và đặc biệt là các truyền thuyết về anh hùng lịch sử
như Nguyễn Biểu, Lê Lợi, Nguyễn Xí, Đinh Liệt... Đó là kho tàng tục ngữ, thành
ngữ, câu đố, câu đối, hình thức nói lái... hết sức phong phú gắn với đặc điểm
ngữ âm và từ vựng của xứ Nghệ.
Xứ Nghệ lại có một di sản dân ca rất khác với xứ Thanh: hát
ả đào Cổ Đạm, hát giặm Hà Tĩnh, hát ví Nghệ Tĩnh. Hát giặm không phổ biến khắp
xứ mà chỉ thịnh hành ở một số địa phương như Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ
Anh... với hai hình thức hát giặm nam nữ và hát giặm vè.
Truyền thống sinh hoạt phường hội, sinh hoạt văn hoá dân
gian như hò, vè, ví dặm là nét đặc trưng của Nghệ Tĩnh, đặc biệt là những nơi
có phường lao động như phường vải, phường cấy, phường nón, phường võng, phường
văn... Chăn trâu có ví mục đồng, đi củi có ví trèo non, đi thuyền có ví đò
đưa... Hát ví ở mỗi phường lại có nét riêng. Ví phường vải Nam Đàn khác ví
phường vải Thạch Hà, ví trèo non Diễn Châu khác ví trèo non Hồng Lĩnh. Riêng ví
đò đưa cũng có dăm bảy điệu, ví sông ngàn phố mộc mạc, ví sông La sâu lắng, ví
sông Lam đậm đà, ví đò đưa xuôi êm ả, thiết tha, ví đò đưa ngược lại gập ghềnh,
gấp khúc...
Hai đỉnh cao của dân ca xứ Nghệ, xứ Thanh là hát phường vải
và hò sông Mã. Hát phường vải phổ biến nhất ở các vùng Nam Đàn, Đô Lương, Hưng
Nguyên, Diễn Châu, Can Lộc, Đức Thọ, Yên Thành, Hương Sơn... là những nơi thịnh
hành nghề kéo sợi, dệt vải, cũng là nơi trước đây nhiều anh khoá, nhà nho thích
dự các cuộc hát phường vải vừa phụ nghệ nhân tài tử, vừa làm “cố vấn nghệ
thuật” trong cuộc thi tài. hát phường vải trước đến nay bao giờ cũng tuân theo
thủ tục chặt chẽ, và ở Nghệ Tĩnh là nơi mà hát phường vải phổ biến nhất, có
truyền thống nhất, có nền nếp và quy cách nhất, có nhiều tay bẽ câu hát lỗi lạc
nhất (như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, phan Bội Châu...).
Trong các làn điệu dân ca của người Nghệ Tĩnh, hát ru là một
sản phẩm văn hoá dân gian độc đáo. Điệu ru con địa phương nào cũng nhẹ nhàng,
êm ái, thiết tha nhưng điệu ru con Nghệ Tĩnh nghe trầm trầm, chậm rãi, thiết
tha và thông qua đó truyền dạy đạo lý nghĩa tình cho con trẻ.
Hò sông nước Bắc Trung Bộ là sản phẩm tinh thần, biểu hiện
sự cố kết cộng đồng người Việt. Những làn điệu hò lan toả trên một không gian
rộng lớn, ở mỗi vùng lại có lối hò riêng biệt. Hò sông nước xứ Nghệ đầy ân
tình, biểu lộ nội tâm như muốn gửi gắm tình cảm cá nhân vào trong lời ca, do đó
trên những con thuyền chở khách sông Lam, sông La luôn có nhịp điệu chậm mang
tính chất kể lể, tạo ra sự hoà nhập cùng đồng cảm giữa người hò và người nghe.
Sự hoà nhập, pha trộn các lối hát giữa hò, ví, giặm trong môi trường sông nước
cho thấy âm điệu vùng này nhất quán, chịu tác động sâu sắc của hệ thống năm
thanh điệu (không có thanh ngã).
Bên cạnh nền văn hoá dân gian phong phú còn tồn tại song
song và có tác động qua lại của nền văn hoá bác học. Điều này đã làm cho văn
hoá dân gian Nghệ Tĩnh mang một nét riêng, tạo yếu tố bác học trong ca dao, tục
ngữ và các thể diễn xướng dân gian... mang đậm đà phong cách xứ Nghệ.
*/. Lễ hội:
Xứ Nghệ là xứ sở của những lễ hội cổ truyền diễn ra trên
sông nước như: lễ hội Cầu Ngư, Rước Hến, Đua Thuyền... Lễ hội làm sống lại
những kỳ tích lịch sử được nâng lên thành huyền thoại, giàu chất sử thi, đậm đà
tính nhân văn như lễ hội Đền Cuông, Đền Cờn, lễ hội làng Vạn Lộc, làng Sen...
Miền núi có các lễ hội như: lễ hội Hang Bua, lễ hội Xăng Khan, lễ mừng nàh mới,
lễ uống rượu cần... Các hội lễ với các tục hèm đa dạng, với việc diễn xướng sự
tích, múa hát, với các trò vui như bơi chải, đua thuyền...
- Lễ hội đền Vua Mai: Hàng năm tại đền và mộ Vua, nhiều hội
lễ được tổ chức trọng thể như: Hội đền rằm tháng Giêng, Hội giỗ Hoàng hậu rằm
tháng 7, Hội giỗ Vua rằm tháng 9 âm lịch. Phần lễ được tổ chức vào Rằm tháng
Giêng bao gồm: lễ yết cáo, lễ rước, lễ đại tế và lễ tạ để tỏ lòng biết ơn công
đức Vua Mai cùng các thần tướng nghĩa binh của ông. Hội đền mùa xuân có quy mô
lớn, trang nghiêm và đông đảo nhất với nhiều trò vui: rước kiệu, đẩy gậy, leo
núi, đánh vật, bắn nỏ, chọi gà, đua thuyền, đánh đu, cờ người, múa hát rôm rả
trong nhiều ngày, thi chế biến các món ăn truyền thống....
- Lễ hội đền Chiêu Trưng: Vào ngày 1, 2, 3 tháng 5 âm lịch
hàng năm. Trước ngày chính giỗ thường có trận mưa rào chiều hoặc tối mồng Một.
Nhân dân trong vùng nói rằng đó là trận mưa “tắm tượng”, “rửa đền” đón khách
thập phương về tế lế. Sau tế lế có rước kiệu đua thuyền trên sông từ Mai Phụ
đến Cửa Sót.
- Hội Chùa Hương Tích vào ngày 18 - 2 âm lịch hàng năm, ngày
Diệu Thiện hoá Phật. Cứ 3 năm mới có chính hội một lần, kéo dài suốt hàng
tháng.
- Lễ hội đền Quả Sơn: Đền Quả thuộc xã Bạch Ngọc, Đô Lương,
đền thờ Lý Nhật Quang (Uy Minh Đại Vương Lý Hoàng, con trai vua Lý Thái Tổ). Lễ
hội diễn ra vào ngày 15-16 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Hội có tế thờ, rước 12
thuyền lộng lẫy, có đua thuyền.
- Lễ hội Rước Hến (hay còn gọi là hội Thanh Đàm): Hội diễn
ra từ 15-18 tháng hai âm lịch hàng năm tại làng Thanh Đàm, xã Nam Tân, huyện
Nam Đàn. Đây là lễ hội của địa ph]ơng cầu no đủ. Vào ngày chính hội, có đoàn
rước hến (đủ nghi tương) đi giữa sông. Chủ tế thả dần từng nắm hến cầu mong
thuỷ thần giúp cho hến sinh nở nhiều để dân có đủ thức ăn.
Ngoài ra, còn có rất nhiều lễ hội đặc sắc tiêu biểu như: Lễ
hội làng Sen (vào ngày 19 tháng 5 sinh nhật Bác); Hội đền Vua Lê (ngày 1 tháng
2 âm lịch ở Hưng Nguyên); Lễ hội đền Nguyễn Xí (ngày 30 tháng Giêng và ngày 1
tháng hai âm lịch, tại Nghi Hợp, Nghi Lộc); Lễ hội Đức thánh Hoàng Mười (vào
ngày 10 tháng 10 âm lịch tại Hưng Nguyên); Lễ hội sông nước Cửa Lò (vào dịp 30
– 4 hàng năm); Lễ hội đền Cờn (vào ngày 19-20-21 tháng Giêng âm lịch hàng năm,
tại Quỳnh Phương, Quỳnh Lưu); Lễ hội Xăng Khan của người Thái (được tổ chức 3 –
5 năm một lần vào khoảng tháng 11 âm lịch, hoặc tháng 2, 3 năm sau)...
*/. Danh nhân đất
Nghệ:
Nói đến xứ Nghệ, người ta vẫn thường nhắc đến một đặc trưng
dễ nhận thấy đã được truyền thống lịch sử dân tộc ghi nhận từ bao đời nay, đó
là vùng địa linh nhân kiệt, đã sản sinh ra những vị anh hùng dân tộc, những con
người học rộng tài cao.
Người xứ Nghệ có rất nhiều nhân vật nổi
tiếng, tài cao, học rộng, thể hiện sự vượt lên trước khó khăn, nghèo khổ của
con người nơi đây. Đó là hình tượng “ông Đồ Nghệ” trong dân gian, đó là Nguyễn
Biểu, Đặng Thai Mai, Phân Bội Châu, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh..., là những người
đóng góp công lớn trong việc sáng tạo văn hoá tiểu vùng, vùng và đất nước.
Trên dải đất Hồng Lam còn lưu lại bao nhiêu di tích và di
vật lịch sử. Nhiều làng xã dọc vùng sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố vẫn đặt đền thờ
Hoàng hậu Bạch (vợ vua Trần Duệ Tông) và công chúa Huy Châu (cung phi vua Lê
Thái Tổ) đã có công chiêu dân lập ấp. Núi Cao Vọng, núi Thiên Nhẫn là di tích
về sự chống trả cuối cùng của cha con Hồ Hán Thương. Đền thờ Mai Hắc Đế, Chiêu
Trưng Vương Lê Khôi, Nguyễn Chích, Đinh Lễ, Đinh Liệt, Nguyễn Xí, cha con Đặng
Dung, Đặng Tất, Nguyễn Biểu, Phan Đình Phùng... rải rác khắp vùng Nghệ Tĩnh. Từ
các danh nhân, sĩ tử là người đất Nghệ như: La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, Lê Hữu
Trác, Hồ Xuân Hương (TK 18), Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu, Trần Phú, Hà Huy
Tập, Hồ Chí Minh... là những danh sĩ có tài kinh bang tế thế ở quốc sự triều
đình và cả ở sự nghiệp dạy chữ nghĩa cho các vùng khác nhau trên đất nước, đặc
biệt là lãnh tụ Hồ Chí Minh, người khai sinh ra nước Việt Nam, danh nhân VH thế
giới.
Truyền thống văn hiến đó được đời
đời con cháu xứ Nghệ noi theo, phát huy và tiếp bước những thế hệ cha anh đi
trước, làm nên hưng danh rạng rỡ cho dân tộc Việt Nam.
*/. Vai trò của
vùng trung tâm :
Xứ Nghệ với vai trò quan trọng của
thành phố Vinh - một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội của Bắc miền
Trung. Vinh là trung tâm văn hoá với nhiều cơ sở và tổ chức văn hoá, khoa học,
văn học nghệ thuật... Nó vừa có vai trò là nơi phát sinh, nâng cao và tiếp nhận
những yếu tố nội sinh và ngoại lai, từ đó gạn lọc và lan toả ra các vùng xung
quanh. Vinh vừa là đầu mối giao thông xuyên Việt, là đô thị xưa và nay, vừa
đóng vai trò trụ sở của chính quyền, vừa có yếu tố cảng - thị... nên nó có đủ
điều kiện thực hiện những nhiệm vụ của một vùng trung tâm.
Tiểu vùng văn hoá Nghệ Tĩnh là một tiểu
vùng văn hoá quan trọng, góp phần làm phong phú và đa dạng nền văn hoá dân tộc,
đặc biệt là bảo lưu, gìn giữ, góp phần tô đậm thêm bản sắc của nền văn hoá ấy.
Tài liệu tham khảo chính:
1.
Ban Nghiên cứu lịch sử tỉnh Nghệ
Tĩnh, Lịch sử Nghệ Tĩnh (tập I), Nxb
Nghệ Tĩnh, Vinh 1984.
2.
Nguyễn Đổng Chi, Địa chí văn hoá dân gian Nghệ Tĩnh, Nxb
Nghệ An, Vinh 1995.
3.
Ninh Viết Giao, Về văn hoá xứ Nghệ, Nxb Nghệ An, 2003.
4.
Đinh Gia Khánh - Cù Huy Cận, Các vùng văn hoá Việt Nam, Nxb Văn học,
Hà Nội 1995.
5.
Ngô Đức Thịnh, Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá ở Việt Nam, Nxb Trẻ, Hà Nội 2004.
6.
Trần Viết Thụ, Địa danh lịch sử - văn hoá Nghệ An, Nxb Nghệ An, 2006.
7.
Trần Quốc Vượng, Việt Nam cái nhìn địa - văn hoá, Nxb
VHDT và Tạp chí VHNT, Hà Nội 1998.
8.
Trần Quốc Vượng (chủ biên), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội 2001.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét